Hiển thị các bài đăng có nhãn Bệnh loãng xương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Bệnh loãng xương. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 10 tháng 9, 2013

Sụp mi là tình trạng bờ mi trên và da mi bị sa trễ xuống dưới mức bình thường. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là tuổi già, khối u vùng hố mắt, bẩm sinh, sau chấn thương và phẫu thuật.

 

Sụp mi vì lớn tuổi thường nhẹ hơn so với các nguyên nhân khác, do sự thừa da mi trên quá mức, biểu hiện rõ nhất ở người sút cân sau điều trị béo phì hoặc người có cấu tạo da khô... Đây còn là biểu hiện của quá trình lão hóa, mất tính đàn hồi của da nói chung. Một nguyên nhân là tình trạng giảm trương lực cơ mi - quá trình sinh lý bình thường ở người lớn tuổi và mức độ khác nhau ở từng người.
Một số dấu hiệu chủ yếu để chẩn đoán tình trạng sụp mi trên ở người lớn tuổi:
- Động tác mở mắt khó khăn, nhiều khi phải nhăn trán hay ngẩng đầu mới có thể nhìn được.
- Da mi trên da trễ xuống tạo cho mi trên có nhiều nếp mi.
- Da mi trễ qua cả bờ mi và che phủ phần lớp đồng tử, cản trở khả năng nhìn.
Các dấu hiệu trên thường rõ rệt vào buổi sáng, có nhiều trường hợp bệnh nhân phải dùng ngón tay để nâng da hay mi trên mới nhìn thấy được. Ngoài giảm khả năng nhìn, sụp mi còn tạo cho người bệnh vẻ kém thẩm mỹ và già nua trước tuổi. Nếu tình trạng này kéo dài có thể dẫn đến giảm thị lực.
Điều trị sụp mi chủ yếu bằng phẫu thuật, căn cứ vào mức độ sụp mi và khả năng hoạt động của cơ nâng mi. Nếu tình trạng sụp mi chỉ ở mức độ vừa phải thì chỉ cắt bỏ phần da mi trên dư thừa. Nếu bị sụp mi nhiều, ngoài việc cắt bỏ phần da mi trên dư thừa còn phải can thiệp vào phần cơ nâng mi, đơn giản nhất là làm ngắn cơ nâng mi và cắt bỏ một phần cơ vòng mi. Rất hiếm trường hợp phải dùng đến biện pháp treo mi bằng các chất liệu như chỉ silicon. Tùy theo phương pháp phẫu thuật mà sự hồi phục hình dạng mi trên kéo dài từ vài tuần đến vài tháng.
Mặc dù liệu pháp phẫu thuật tương đối đơn giản, những cũng xảy ra một vài biến chứng gây khó chịu như lộn mi trên do cắt da quá nhiều, gặp khó khăn khi nhắm mắt do điều chỉnh cơ quá mức, nếp mi trên không được tạo ra đúng vị trí.
Bác sĩ Trần Thiết Sơn

Chủ Nhật, 8 tháng 9, 2013

Viêm phế quản mạn tính là bệnh lý thuộc đường hô hấp dưới. Bệnh gặp nhiều ở người cao tuổi. Đôi khi viêm phế quản mạn tính và khí phế thũng kết hợp với nhau hình thành bệnh phế quản - phổi tắc nghẽn không đặc hiệu. Theo Tổ chức Y tế thế giới, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính hiện là nguyên nhân gây tử vong và tàn phế đứng hàng thứ 4 trên thế giới với khoảng 50 triệu người mắc và 3 triệu người chết hàng năm. Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ở những người trên 40 tuổi là 5,2% (miền Bắc) và có khoảng 4 triệu người trong nước mắc bệnh này.
Vì sao bị viêm phổi mạn tính?

Viêm phế quản mạn tính là hiện tượng viêm toàn bộ phế quản gây ho và khạc đờm kéo dài ít nhất 3 tháng trong 1 năm và kéo dài trong 2 năm liên tiếp mà không phải do một bệnh hô hấp nào khác gây nên như áp-xe phổi, lao phổi, giãn phế quản...

Có nhiều nguyên nhân gây nên bệnh viêm phế quản mạn tính ở người cao tuổi, trong đó do sự giảm chức năng đề kháng của cơ thể, sức khoẻ nói chung bị sa sút bởi tuổi tác cao và sự xâm nhiễm của vi sinh vật gây bệnh đóng vai trò hết sức quan trọng. Một số nguyên nhân thuận lợi như nghiện  thuốc lá, thuốc lào; sống trong môi trường có nhiều bụi, dùng bếp than lâu ngày như đun than tổ ong, than củi, rơm rạ; cơ địa hay bị dị ứng đường hô hấp như hen suyễn, viêm phế quản nhiễm khuẩn mạn tính, kéo dài ngay từ lúc còn nhỏ tuổi hoặc có một số dị dạng về khung xương sườn, cột sống như gù vẹo cột sống...


Hệ lụy của viêm phế quản mạn tính

Trong bệnh viêm phế quản mạn tính thường có 3 hiện tượng: ho, khạc đờm nhày hoặc mủ và khó thở. Giai đoạn đầu của bệnh viêm phế quản mạn tính là người bệnh ho và khạc ra đờm vào buổi sáng. Ho thường xảy ra từng đợt, nhất là khi thời tiết thay đổi (nóng, lạnh đột ngột, chuyển mùa từ nóng sang lạnh hoặc ngược lại), mỗi đợt kéo dài từ 1 tuần đến vài tuần, mỗi năm có khi xảy ra ho 5 - 6 lần. Tính chất của đờm thường có màu trắng, lỏng hoặc đặc quánh, đôi khi có bọt. Bệnh càng kéo dài gây ho càng nhiều, đờm càng ngày càng đặc hơn và đổi màu (thường là màu vàng), khối lượng đờm do ho, khạc ra trong 1 ngày có khi lên tới 10ml hoặc hơn thế nữa. Những tháng sau, năm sau ho càng ngày càng tăng lên và số lượng đờm cũng tăng dần lên, bệnh cũng càng nặng hơn: mỗi đợt ho sẽ kéo dài hơn vài tuần và số lần ho cũng tăng lên một cách đáng kể. Ở giai đoạn muộn hơn của viêm phế quản mạn tính thường có khó thở. Lúc đầu người bệnh chỉ cảm thấy nặng ngực, dần dần khó thở thực sự. Bệnh càng lâu và càng nặng thì sự thiếu hụt không khí càng nhiều, gây rối loạn chức năng hô hấp một cách đáng kể, do đó người bệnh luôn thiếu dưỡng khí gây nên mệt mỏi, sụt cân, ảnh hưởng đến nhiều chức năng khác của cơ thể, nhất là hệ tuần hoàn và hệ thần kinh trung ương (tim đập nhanh, mệt mỏi, buồn ngủ...). Viêm phế quản mạn tính thường có 2 loại: loại lành tính và loại ác tính. Viêm phế quản mạn tính lành tính là loại chỉ xảy ra ở phần thân của các phế quản lớn (khí quản, phế quản gốc, thuỳ và phân thuỳ). Nếu hiện tượng viêm nhẹ thì ít khi gây suy hô hấp, loại viêm phế quản mạn tính lành tính chiếm tỷ lệ cao nhất (khoảng 90%). Viêm phế quản mạn tính thể ác tính chiếm tỷ lệ thấp hơn rất nhiều (khoảng 10%), thường xảy ra ở các tiểu phế quản và gây hội chứng tắc nghẽn thở ra (syndrome obstructif expiratoire) dẫn đến suy thở và rất dễ dẫn đến tâm phế mạn ở người cao tuổi.

Khám thực thể, khi nghe phổi sẽ thấy có ran rít và ran ẩm nhỏ hạt ở 2 phế trường. Trong những đợt tiến triển cấp tính thì khi nghe phổi có thể thấy nhiều ran hơn khắp 2 phế trường. Khi bệnh có xu hướng tiến triển xấu đi (hình thành bệnh khí phế thũng) thì khám thấy rì rào phế nang giảm rõ rệt. Các loại cận lâm sàng như xét nghiệm công thức máu sẽ thấy đa hồng cầu (một thời gian vài năm sau khi bị viêm phế quản mạn tính); lưu lượng hô hấp khi gắng sức sẽ giảm; dung tích sống, thể tích thở ra tối đa giảm; PaO2 và PaCO2 giảm (khi đo khí trong máu). Xquang có thể thấy mạng lưới phế - huyết quản tăng đậm.

Để không bị mắc viêm phế quản mạn tính

Một số thói quen như nghiện thuốc lá hoặc thuốc lào nên bỏ càng sớm càng tốt. Nếu chưa có điều kiện dùng bếp ga, bếp điện thì cần cải thiện việc dùng bếp than, củi, rơm rạ bằng cách dùng loại bếp ít khói. Nhà ở cần thông thoáng để tránh hiện tượng khói bếp ứ đọng nhiều giờ, không khí không được lưu thông. Cùng với cộng đồng, tích cực tham gia hoặc vận động mọi người trong gia đình, làng xóm, dân phố vệ sinh môi trường sống càng sạch, càng ít bụi càng tốt. Nếu bị viêm đường hô hấp (hô hấp trên và hô hấp dưới) cần được khám và điều trị dứt điểm, không để bệnh trở thành mạn tính. Cần tập thể dục thường xuyên để điều hoà nhịp thở như hít thở, đi bộ, chơi thể thao. Tập thể dục và chơi thể thao phải tuỳ theo sức của mình, không nên gắng sức tập quá khả năng hoặc quá sức lực của mình và phải tập theo bài bản.
Theo báo cáo kết quả tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 2009, tỷ lệ người cao tuổi (NCT) ở Việt Nam hiện chiếm tỷ lệ 9% dân số và sẽ tăng nhanh tới khoảng16,8% vào năm 2029. Tuổi thọ khỏe mạnh của người Việt Nam hiện nay là 66 tuổi. Vấn đề già hóa dân số ở Việt Nam, nhiều chứng bệnh không lây như tim mạch, đái tháo đường... đang trở thành thách thức lớn đối với nền kinh tế - xã hội. Làm thế nào để giảm thiểu nguy cơ có hại cho sức khỏe, không ngừng nâng cao chất lượng sống NCT?

Những thách thức về sức khoẻ người cao tuổi

Người cao tuổi và bệnh tật có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Khi tuổi cao, sức chống đỡ và sự chịu đựng của con người trước các yếu tố và tác nhân bên ngoài cũng như bên trong kém đi rất nhiều. Đó chính là điều kiện thuận lợi để bệnh tật phát sinh và phát triển. Ở NCT, bệnh thường phát triển âm thầm khó phát hiện và thường mắc nhiều bệnh cùng một lúc, gây suy sụp sức khỏe rất nhanh chóng. Cùng với sự phát triển về kinh tế và mức sống tăng cao, lối sống hiện đại, ngoài những bệnh thường gặp nhất ở người cao tuổi thì ngày nay những căn bệnh như đái tháo đường, huyết áp, tim mạch... đang có xu hướng phát triển mạnh.

Một chuyên gia Lão khoa người Ba Lan đã nhận định, trong số những người trên 65 tuổi, thì có gần 33% bị suy giảm chức năng, mất khả năng lao động và ở độ tuổi 80 trở lên thì tỷ lệ này là 64%. Ông này cũng kết luận rằng, tỷ lệ mắc bệnh tăng lên theo tuổi và trong độ tuổi 60 trở lên thì tỷ lệ mắc bệnh cao gấp 1,7 - 2 lần so với độ tuổi dưới 40.

Về sức khoẻ thể chất có nhiều thay đổi ở NCT

- Theo thời gian, tế bào thần kinh bị hủy diệt dần mà không được thay thế, lượng máu nuôi dưỡng cho não giảm, sự suy nghĩ bắt đầu chậm chạp, rối loạn, nhầm lẫn.
- Th ủy tinh thể của mắt trở nên cứng đục, võng mạc kém nhạy cảm với ánh sáng, thị giác giảm khi nhìn sự vật ở gần hay trong bóng tối.
- Tai nghe nghễnh ngãng, khó bắt được các âm thanh có tần số cao và tiếng nói bình thường.
- Ăn uống mất ngon, thức ăn như đắng chát vì tế bào vị giác trên lưỡi ngày một ít đi, miệng khô vì hiệu năng sản xuất của tuyến nước bọt giảm tới mức đáng ngại.
- Khứu giác kém, mũi không phân biệt và tiếp nhận được mùi của hóa chất, thực phẩm.
- Nhịp tim chậm, lưu lượng máu qua tim giảm, cơ tim xơ cứng, dễ bị suy tim, gây ngất xỉu, khiến ta không cáng đáng được những công việc thường làm khi còn trẻ.
- Hơi thở ngắn, nhanh, lượng dưỡng khí trong máu giảm dẫn đến khó thở, dễ thấm mệt khi làm việc chân tay. - Gan teo, lượng máu lưu thông qua gan giảm, chức năng thanh lọc độc chất kém hữu hiệu.
- Th ận cũng nhỏ lại. Máu đi qua thận giảm, nước tiểu loãng, khả năng bài tiết kém, bàng quang co bóp yếu, gây chứng khó tiểu và tiểu tiện không tự chủ, tuyến tiền liệt xơ hoá, gây bí tiểu, đôi khi phải thông cho dễ chịu. - Lớp mỡ dưới da teo, tuyến mồ hôi và tuyến nhờn kém hoạt động, gây da khô, nhăn nheo, dễ bị tổn thương, ít chịu đựng được nhiệt độ lạnh giá.
- Hệ thống miễn dịch yếu, sự sản xuất kháng thể bị trì trệ, cơ thể dễ bị nhiễm khuẩn, bệnh tật sẽ trầm trọng hơn. - Đời sống tình dục cũng có nhiều thay đổi, suy giảm tuy nhiên khả năng này vẫn có thể tồn tại tới tuổi 80, 90.

Sự sa sút trí tuệ

Khả năng thích nghi với hoàn cảnh mới và giải quyết cấp bách các vấn đề, đều giảm đi với tuổi già. Cũng trong phạm vi tâm thần, nhiều người già có một số phản ứng tâm lý tiêu cực. Họ thường trầm mặc bi quan, hạ giá khả năng bản thân, ngại giao lưu, giảm quan hệ qua lại, hay than thân trách phận hoặc oán trách người khác. Với tuổi này, sức khoẻ con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Có những yếu tố ngoài tầm kiểm soát của mỗi cá nhân như chủng tộc, đặc tính di truyền, giới tính, hoặc nhiều yếu tố chủ quan có khả năng ảnh hưởng tới trí tuệ. Nhận xét chung là ở người cao tuổi, các bệnh mạn tính chiếm tỷ lệ cao, đòi hỏi phải quản lý lâu dài, phối hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc-bệnh nhân-gia đình-cộng đồng. Việc phát hiện bệnh tật sớm, kịp thời là có ý nghĩa cho công tác điều trị cũng như thực hiện các biện pháp phòng ngừa hiệu quả. Th ực tế cũng cho thấy phần lớn NCT chưa có thói quen đi kiểm tra sức khỏe thường kỳ, hệ quả là nhiều người không biết mình có bệnh hoặc nếu biết thì cũng không tuân thủ các biện pháp điều trị và phòng ngừa thích đáng.

Chăm sóc sức khoẻ NCT

Tuổi Vàng là thời gian mà mỗi người đã trải qua sau khi đã đóng góp nhiều công sức, trí tuệ cho xã hội cũng như cho gia đình con cháu. Tại nhiều quốc gia, tuổi đó được coi như từ 65 trở lên. Hiểu biết những thay đổi về thể chất, tâm thần của nhóm người này là rất cần thiết để ứng phó, thích nghi. Khám sức khoẻ tổng quát hàng năm, kiểm soát toàn bộ sức khoẻ của NCT. Đây cũng là dịp để thầy thuốc thực hiện một số xét nghiệm về máu để theo dõi lượng đường, cholesterol, hồng cầu, bạch cầu, thử nghiệm nước tiểu để đánh giá tình trạng chức năng của thận, bàng quang. Sau cùng là tư vấn, hướng dẫn phòng bệnh sử dụng thuốc men đúng lời chỉ dẫn, có chế độ dinh dưỡng hợp lý, luyện tập đều đặn, ngủ nghỉ đầy đủ để gìn giữ tuổi vàng.

Tích cực trong việc phòng chống lão hoá

Đã sống tới tuổi 65, thì sẽ có nhiều triển vọng là tuổi thọ sẽ đạt tới 80- 90. Giai đoạn tuổi già có thể là khoảng thời gian lâu hơn tuổi trung niên hay thiếu niên. Để an hưởng tuổi vàng, ta cần có một thái độ ứng xử tích cực, luôn đảm bảo một cuộc sống vui, khoẻ, sống có ích.

- Hãy trở thành cần thiết cho mọi người. Sằn sàng làm những việc lớn , nhỏ cho thân nhân. Làm cho người khác cảm thấy hạnh phúc là họ được chăm sóc, ưu ái.

- Giữ phần chủ động cuộc đời mình, luôn tỏ ra mình còn hữu dụng, còn khả năng, không cần phụ thuộc vào ai.

- Tiếp tục học hỏi.

- Đừng để mình bị cô đơn, lẻ loi. Trong sinh hoạt hàng ngày, hãy cố gắng gần gũi với mọi người, kiềm chế phẫn nộ, gạt bỏ tâm tư xấu, ngăn ngừa căng thẳng thần kinh, tránh tranh chấp mà nên nhượng bộ, tập luyện thể dục điều độ.

Ăn uống

Chế độ ăn uống với thực phẩm dinh dưỡng là mối quan tâm lớn của con người. Không có một công thức nấu ăn nào hoàn hảo cho tuổi thọ trường sinh. Nhưng những lời khuyên thực tế sẽ là: thực phẩm phải đa dạng, phẩm chất dinh dưỡng cao và cân bằng. Biết lựa thức ăn thích hợp, chia lượng thực phẩm trong ngày thành nhiều bữa nhỏ.

- Tránh thực phẩm có nhiều chất mỡ, nhất là mỡ động vật, mỡ bão hòa làm tăng cholesterol trong máu. Mỡ thực vật, không bão hòa, làm giảm cholesterol. Nên thay thịt bằng cá, rau, trái cây, uống sữa có ít chất béo.

- Ăn thực phẩm có nhiều chất carbohydrates như rau, trái cây, hạt ngũ cốc, vừa rẻ lại tốt lành và cũng có nhiều năng lượng. - Về chất đạm, protein là thành phần chính cấu tạo nên cơ thể. Chất này có nhiều nhất trong thịt động vật nhưng cũng có trong thảo mộc, nhất là các cây thuộc họ đậu (legumes): đậu Hà lan, đậu cô ve, đậu nành. Khoa học đã chứng minh là một khẩu phần có nhiều chất đạm động vật làm tăng hiểm họa gây bệnh tim mạch. Với tuổi cao, chúng ta nên theo một chế độ thực phẩm với thịt nạc, sữa ít chất béo, nhiều rau, trái cây.

- Nước và muối cũng cần được lưu ý. Trong cơ thể, tỷ lệ nước lên đến 60%, mỗi ngày thận lọc gần hai trăm lít máu và thải ra 1/100 dung dịch nước. Như vậy cơ thể đòi hỏi một số lượng nước tối thiểu để hoạt động, trung bình ta cần uống 1 lít rưỡi nước mỗi ngày, và uống thêm khi nào thấy cần.

- Gần đây, chất xơ (fi ber) trong rau và trái cây được nhắc tới nhiều vì nó có công dụng trong việc hạ thấp lượng cholesterol trong máu, tăng tốc độ di chuyển của thức ăn trong ruột, tránh được táo bón và viêm ruột. Chất xơ không có giá trị dinh dưỡng nhưng có tác dụng làm đầy dạ dày, mất cảm giác thèm ăn nên còn có tác dụng giúp ta giảm béo.

- Sinh tố và khoáng chất có tác dụng xúc tác trong việc chuyển hóa thức ăn và có nhiều trong các loại thực phẩm. Tuy nhiên, ở người cao tuổi, khẩu phần nhiều khi không được cân bằng và có thể thiếu một vài loại sinh tố nào đó. Cần bổ xung các chất chống oxy hoá mà 3 chất chính là sinh tố C, sinh tố E và Beta-caroten.

Vận động

Sự tập luyện giúp con người duy trì được một phần lớn sức bền bỉ đã có, dù rằng người ta đã vào tuổi lão suy. Không nên quá nhấn mạnh vào sự phải nghỉ ngơi, dưỡng sức. Tập luyện làm tăng sự nhịp nhàng của toàn thân, tim phổi tăng hiệu năng, giảm tăng huyết áp và cholesterol, khớp xương co duỗi trơn tru, cơ xương cứng cáp, trí óc sáng suốt, nhạy cảm hơn, tâm thần thoải mái, yêu đời và “chuyện ấy” cũng tốt hơn, tuổi thọ sẽ cao hơn. Hãy sắp đặt một chương trình tập luyện thích hợp với tuổi, sức khỏe, hoàn cảnh, điều kiện của mình. Dành cho sự vận động một khoảng thời gian ưu tiên và cố định trong ngày, coi sự vận động như một nhu cầu chứ không phải để giải trí. Hãy làm sao để sự tập luyện trở thành người bạn đồng hành của các cơ năng trong cơ thể. Hãy tự bảo vệ sức khỏe của mình cùng với nỗ lực của chính sách xã hội không ngừng nâng cao chất lượng sống.
Mọi người có thể mắc triệu chứng đau lưng ngay cả khi tuổi còn rất trẻ và cũng không có sự phân biệt giàu – nghèo, giới tính cũng như chủng tộc, vùng địa lý (miền xuôi, miền ngược, nông thôn, thành thị). Tuy vậy, người cao tuổi (NCT) dễ mắc chứng đau hơn rất nhiều so với người trẻ tuổi, đau lưng chỉ là một triệu chứng nhưng gây không ít phiền toái cho người bệnh.
 

Nguyên nhân gây đau lưng ở NCT
Đau lưng có hai loại nguyên nhân cơ bản: Đau lưng do tác động cơ học và đau lưng do hiện tượng viêm.
Đau lưng do tác động cơ học: đây là loại đau lưng hay gặp ở lứa tuổi đã trưởng thành và đặc biệt là NCT như: thoái hoá cột sống, thoát vị đĩa đệm, gai đôi cột sống… Thoái hoá cột sống thường hay xảy ra ở vị trí sụn khớp và đĩa đệm, bởi do hiện tượng trọng lực của cơ thể quá nặng tác động hàng ngày lên cột sống và cả tác động của trọng lực đè lên vai gáy rồi tác động xuống hệ thống đốt sống (ví dụ như ngồi làm việc nhiều giờ không vận động). Khi cột sống bị thoái hoá thì triệu chứng đau lưng được thể hiện khá sớm và cũng chính vì có hiện tượng đau lưng rất khó chịu mà người bệnh phải đi khám. Ngoài các nguyên nhân do thoái hoá cột sống thì có những nguyên nhân thuộc về cơ học như: mang vác nặng, thay đổi tư thế đột ngột hoặc bưng, bê không cân xứng… Đây cũng là một trong các nguyên nhân gây đau lưng ở NCT.

Đau lưng do hiện tượng viêm: trong các nguyên nhân gây viêm có thể xảy ra ngay tại cột sống như: viêm đĩa đệm, lao cột sống, ung thư cột sống, viêm khớp cùng chậu… và cũng có nhiều trường hợp đau lưng nhưng lại do viêm nhiễm ở một cơ quan khác trong cơ thể như: viêm phần phụ ở nữ giới (viêm tiểu khung, viêm buồng trứng…), viêm dạ dày – tá tràng, viêm tiết niệu (do sỏi hoặc do vi khuẩn)… Các loại bệnh này thường gây đau lưng một cách âm ỉ, đặc biệt hay xảy ra vào ban đêm và đau lưng cùng một lúc với các triệu chứng chính của bệnh (ví dụ như người bị đau dạ dày, sỏi tiết niệu). Những nguyên nhân này cũng thường gặp ở NCT nhiều hơn người còn trẻ tuổi.

Biện pháp khắc phục đau lưng
Đau lưng chỉ là một triệu chứng biểu hiện của nhiều bệnh. Trước hết, người bị đau lưng nên xem bệnh có từ bao giờ và có những hiện tượng gì liên quan đến đau lưng hay không? Ví dụ hay đau lưng vào thời gian nào trong ngày, đau có liên tục không, cơn đau có dữ dội hay âm ỉ. Ngoài đau lưng còn có triệu chứng nào liên quan mật thiết với bệnh như: tiểu buốt, tiểu dắt, tiểu són, nước tiểu có máu, nước tiểu đục hoặc sau mang vác nặng; bưng bê vật nặng, sai tư thế. Có thể tự tìm thấy một số dấu hiệu hoặc hiện tượng có khả nghi nhưng không nên tự mình chẩn đoán bệnh cho mình hoặc người thân khi không có chuyên môn thực sự về y khoa.
Điều quan trọng nhất của việc tìm nguyên nhân gây đau lưng là đi khám bệnh ở những cơ sở y tế có đủ điều kiện và trang thiết bị chẩn đoán. Khi đến khám bệnh cần nghe rõ thầy thuốc hỏi những gì và cần nói rõ cho thầy thuốc biết những hiện tượng đau lưng và các biểu hiện kèm theo. Bác sĩ sẽ khám và cho làm các xét nghiệm có liên quan, ví dụ như: có thể cho chụp X-quang, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ, siêu âm hệ thống niệu (thận, niệu quản, bàng quang), làm xét nghiệm về nước tiểu.

Có khá nhiều trường hợp khi tìm ra nguyên nhân và có biện pháp khắc phục thích hợp thì đau lưng cũng dần dần sẽ khỏi, ví dụ như: ngồi sai tư thế, bưng bê vật nặng không cân xứng trọng lực giữa hai tay và hai chân hoặc các trường hợp đau lưng do ngồi sai tư thế hoặc do ngồi quá nhiều giờ liền như: đối với lái xe, cán bộ văn phòng ngồi trước máy vi tính nhiều giờ, các nhân viên tổng đài, thợ may… Một số bệnh sốt cấp tính do nhiễm trùng cũng gây đau lưng, đau cơ, mệt mỏi như trong bệnh sốt xuất huyết (loại sốt Dengue cổ điển).
Trên cơ sở khám lâm sàng, kết quả các xét nghiệm và cận lâm sàng thì bác sĩ khám bệnh sẽ kết luận và cho hướng điều trị thích hợp. Tuy vậy, cũng có nhiều trường hợp mặc dù biết rõ căn nguyên nhưng giải quyết triệt để căn nguyên đó không phải đơn giản. Chẳng hạn như: thoái hoá cột sống, thoát vị đĩa đệm. Nhiều nhà chuyên môn khuyên rằng, khi biết rõ nguyên nhân gây đau lưng thì cần tìm mọi cách để giải quyết nguyên nhân và sau khi đã điều trị khỏi chứng đau lưng thì không nên để tái phát nguyên nhân đó.Ngoài việc tìm căn nguyên để điều trị thì các việc làm khác hỗ trợ cũng rất cần thiết như tập thể dục nhẹ nhàng tuỳ theo sức mình và bệnh của mình. Các động tác đi bộ hoặc tập thể dục cho người thoái hoá cột sống cũng rất cần tham khảo ý kiến của bác sĩ điều trị, theo dõi sức khoẻ cho mình.

Việc dùng thuốc để điều trị căn nguyên gây đau lưng không phải tuỳ tiện mà cần tuân thủ y lệnh một cách tuyệt đối của bác sĩ. Tuyệt đối không được tự mua thuốc để điều trị hoặc cùng một lúc cả thuốc Tây y và Đông y. Trong điều kiện cho phép, có thể điều trị Đông – Tây y kết hợp, ví dụ như uống thuốc Tây y kết hợp xoa bóp, châm cứu, bấm huyệt hoặc vật lý liệu pháp. NCT cũng đừng quên đi khám bệnh định kỳ để được theo dõi bệnh một cách liên tục đề phòng bệnh tái phát.
Theo quá trình lão hóa cùng tuổi tác, những thay đổi ở hệ tim mạch ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe người cao tuổi. Trong đó xơ cứng động mạch, xơ vữa động mạch đồng hành với tuổi tác gây thiếu máu não ở người cao tuổi.

Xơ vữa động mạch thực sự đã diễn ra từ những năm 20 tuổi và có biểu hiện bệnh lý vào những năm 40, 60 tuổi. Xơ vữa động mạch là nguyên nhân chính gây thiếu máu não ở người cao tuổi, 80% các trường hợp bị thiếu máu não là do sự lão hóa mạch máu và xơ vữa động mạch làm cho mạch máu dày và cứng dần lên, lòng mạch hẹp lại, giảm lưu lượng máu tuần hoàn lên não.




Các nguyên nhân khác có thể kể đến là các bệnh lý tim mạch như suy tim, bệnh van tim, loạn nhịp tim, rối loạn huyết áp; thoái hoá cột sống cổ chèn ép vào động mạch sống nền…

Theo PGS, TS Nguyễn Nhược Kim - Phó chủ tịch hội đông y Việt Nam: “Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thiếu máu lên não, trong đó Vữa xơ động mạch và thoái hóa đốt sống cổ là hai nguyên nhân chủ yếu làm giảm lưu lượng máu nuôi dưỡng não, giảm khả năng cung cấp ôxy cho não... gây ra nhiều triệu chứng khác nhau như: nhức đầu (chiếm 90%), chóng mặt (chiếm 87%), tê bì nhức mỏi chân tay, đau cổ theo hai đường ở phía gáy.

Khó chịu hơn là cảm giác ù tai như có tiếng ve kêu, cối xay lúa trong tai suốt ngày đêm”. Thiếu máu não cũng là nguyên nhân gây mất ngủ triền miên, trí nhớ giảm sút, khó tập trung suy nghĩ, trở nên đãng trí. Thay đổi cảm xúc cũng là một triệu chứng khó chịu nữa của căn bệnh này khiến người mắc luôn cảm thấy bồn chồn, dần trở thành người trái tính, trái nết.

“Chớ nên coi thường thiếu máu não” là cảnh báo của các bác sĩ khoa thần kinh khi hiện có tới 2/3 người cao tuổi mắc bệnh này. Và nguy cơ biến chứng thành nhũn não hay còn gọi là nhồi máu não gây liệt nửa người nếu không điều trị kịp thời.

Với sự cố vấn của nhóm các nhà nghiên cứu: PGS TS Phạm Ngọc Bùng, TS y dược học cổ truyền Phùng Hòa Bình, trên cơ sở vận dụng bài thuốc cổ phương nổi tiếng “Huyết phủ trục ứ thang”, gia giảm thêm một lượng thích hợp cao bạch quả và được sản xuất trên dây chuyền hiện đại, nhóm nghiên cứu bào chế thuốc của công ty dược TW Mediplantex đã góp thêm cho y học hiện đại một phương thuốc điều trị thiếu máu não hiệu quả.

Sở dĩ thuốc điều trị thiếu máu não của Mediplantex có được những ưu việt đó là bởi thuốc được phối hợp cân bằng giữa 2 nhóm vị dược liệu có tác dụng hoạt huyết hóa ứ và bổ huyết sinh huyết . Đặc biệt là sử dụng các vị thuốc: Hồng hoa, ngưu tất vừa có tác dụng hoạt huyết tăng lưu lượng máu lên não vừa giúp giảm mỡ máu, phòng ngừa xơ vữa động mạch máu não.

Cao bạch quả cung cấp oxy nuôi dưỡng tế bào não. Điều này giúp cho sản phẩm của Mediplantex mang lại hiệu quả cao trong điều trị thiếu máu não gây đau đầu, ù tai, hoa mắt, chóng mặt, mất ngủ, suy giảm trí nhớ, tê bì nhức mỏi chân tay...

Vậy là với hoạt huyết dưỡng não người cao tuổi đã có thêm một phương cách nữa để tuổi già sống vui, sống khỏe.

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

Một chế độ ăn giàu dinh dưỡng, cung cấp đủ canxi và khoáng chất sẽ giúp bạn tránh được bệnh loãng xương.

Bệnh loãng xương nếu không được chữa trị kịp thời có thể gây viêm xương, xương giòn, dễ gãy. Vì vậy, một chế độ ăn uống và sinh hoạt hợp lý sẽ giúp bạn phòng tránh được căn bệnh loãng xương. Sau đây là một vài món ăn tốt cho những người bị bệnh loãng xương:
Design by Hao Tran -