Hiển thị các bài đăng có nhãn Những người dễ sinh bệnh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Những người dễ sinh bệnh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013


chaoVào mùa hè, cơ thể ra nhiều mồ hôi nên chóng mệt mỏi, ăn không ngon, khó ngủ... nên người cao tuổi rất dễ mắc bệnh. Để giữ sức khỏe và tăng sức đề kháng, nên ăn các món có tác dụng bổ dưỡng, thanh nhiệt.

Một số món cháo thuốc thích hợp cho người cao tuổi trong mùa hè:
Cháo ý dĩ: Tùy theo số người ăn, cứ hai phần gạo một phần ý dĩ, cho nước nấu nhừ, nêm gia vị mì chính, ăn trong ngày. Cháo ý dĩ chữa bệnh tả, lỵ, lợi tiểu tiện, tiêu phù thũng, chữa bệnh co gân, phong thấp lâu ngày, kích thích tiêu hóa, bổ phế kiện tỳ. Ngoài ra, cháo này còn lợi sữa, rất tốt cho phụ nữ sau sinh nở.
Cháo đậu xanh: Đậu xanh xay nhỏ vừa, ngâm trước hai tiếng đồng hồ. Gạo tẻ tùy theo số người ăn, thường là 300 g gạo, 100 g đỗ. Nấu chín thành cháo, cho thêm đường phèn hay đường đỏ. Nếu không muốn ăn đường thì cho gia vị vừa đủ, ăn nguội.
Cháo đỗ xanh rất mát, giải nhiệt về mùa hè, cầm mồ hôi, thanh tân chỉ khát, dễ tiêu hóa, chống táo bón, nhuận tràng, nhất là những trường hợp máu nóng, làm mát ở những người háo nhiệt, phù thũng, ngứa ngáy khắp người, cháo còn có tác dụng giải nhiệt cho cơ thể khi bị nhiễm chất độc hoặc tăng đào thải các chất độc của cơ thể.
Cháo sắn dây: Lấy 30 g bột sắn dây, 100 g gạo tẻ nấu nhừ thành cháo, ăn khi còn ấm. Tác dụng: Bổ trợ cho sức khỏe, nhất là những người già yếu, huyết áp cao, co thắt mạch vành, đái tháo đường, rối loạn tiêu hóa gây tỳ hư, miệng háo, môi khô, lưỡi đỏ, khát nước nhiều.
Cháo hoài sơn (củ mài): Tùy theo số người ăn, cứ nửa gạo nửa hoài sơn nấu thành cháo, nêm gia vị vừa đủ, ăn nguội. Tác dụng: Bổ tỳ vị, bổ thận, bổ phế, sinh tân chỉ khát, bình suyễn, sáp tinh. Cháo còn chữa được bệnh tả lỵ lâu ngày, hư lao, tiểu đêm nhiều lần, thận hư yếu.
Cháo mướp: Lấy một quả mướp nạo sạch vỏ, thái nhỏ. Dùng 30 g gạo tẻ nấu cháo chín cho mướp vào, cho đường vừa ăn hoặc gia vị vừa đủ, ăn nguội. Tác dụng: Mát huyết trừ đờm, tránh cảm gió, giải độc thanh nhiệt, thông kinh hoạt lạc, cháo làm mát da trừ mụn nhọt, chữa viêm thanh, phế quản mạn tính do nhiệt.
Cháo thận dê: Lấy một quả thận rửa sạch thái mỏng ướp với rượu trắng, gia vị, gừng sợi trong 20 phút. Gạo kê nấu thành cháo chín cho thận dê vào, ăn nóng. Tùy lượng người ăn cứ 100 g gạo kê, 1 quả thận dê. Tác dụng: Bổ dưỡng, hồi phục tế bào não, tăng cường trí nhớ, bổ thận, chữa đau lưng mỏi gối, ngủ kém hay đi tiểu đêm. Cháo còn có tác dụng chữa bệnh suy sinh dục ở nam giới
Cháo chim sẻ: 8-10 con chim sẻ làm sạch lông, bỏ phủ tạng thái nhỏ, 30 g dây tơ hồng, 10 g phúc bồn tử, 20 g kỷ tử. Cho nước vào đun kỹ, lấy nước hầm chim đem nấu cháo, khi chín nhừ cho gia vị, dầu ăn, mấy lát gừng tươi thái sợi. Tác dụng: Bổ can, bổ thận, bổ khí huyết, sinh tinh, chữa đái són, đái dầm, thận hư, đau các khớp.
Cháo lươn: Lươn làm sạch ướp gia vị, mì chính, hạt tiêu. Nấu cháo gạo tẻ chín nhừ, xào lươn rồi cho vào cháo, nêm gia vị vừa đủ, ăn nóng, cho hành và rau răm đủ thơm. Tác dụng: Bổ dưỡng cho người cao tuổi, khí huyết hư, người mệt mỏi; tiêu phù lợi tiểu, chữa đau lưng mỏi gối ăn ngủ kém, hoa mắt chóng mặt, kích thích tiêu hóa.
Cháo trứng gà: Lấy 100 g gạo tẻ nấu cháo, khi chín nhừ đập quả trứng gà vào cháo, lấy cả lòng trắng lòng đỏ (cần chọn trứng gà ta, mới đẻ), cho hành hoa đủ dùng, ăn nóng cho khỏi tanh. Tác dụng: Bổ dưỡng, dễ ăn, thích hợp cho người già sau ốm, cơ thể suy nhược, gầy xanh mệt mỏi, thở yếu, đi lại chậm chạp và phụ nữ sau sinh.
Cháo sữa đậu nành: Lấy 650 ml sữa đậu nành cho gạo tẻ vào nấu (tùy theo khẩu vị thích ăn đặc hay loãng). Khi cháo chín nhừ cho đường đỏ vừa đủ, ăn ấm nóng. Cháo sữa đậu nành là món cháo bồi dưỡng hằng ngày, dễ tiêu hóa, thanh nhiệt giải độc lại mát gan, mát huyết. Cháo dùng được cho mọi lứa tuổi, tốt nhất cho người già vì tiêu hóa kém, hấp thu chậm, miệng nhạt, ăn không thấy ngon, người háo, da khô, mắt mờ, can thận nóng.

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

Gai cột sống là sự phát triển thêm ra của xương trên thân đốt sống, đĩa sụn hay dây chằng quanh khớp. Nguy cơ mắc bệnh này tăng theo độ tuổi và nam bị nhiều hơn nữ.

Có 3 nguyên nhân chính dẫn đến gai cột sống:
Viêm khớp cột sống mãn tính: Quá trình viêm ảnh hưởng đến phần sụn đốt sống, lâu ngày phần sụn này bị hao mòn dần, khiến bề mặt trơn láng của nó trở nên thô ráp, xù xì và cuối cùng hai bề mặt xương tiếp xúc, cọ sát lên nhau. Đến lúc này, cơ thể sẽ có một quá trình tự điều chỉnh để khắc phục hiện tượng trên, nhưng kết quả của quá trình chỉnh sửa lại là sự hình thành gai xương. Do đó, có thể nói gai xương là một đáp ứng tự nhiên của cơ thể đối với phản ứng viêm.

Sự lắng đọng canxi ở các dây chằng, gân tiếp xúc với đốt sống: Trường hợp này thường gặp trong thoái hóa cột sống ở người lớn tuổi; đó là sự lắng đọng canxi dưới dạng calcipyrophosphat. Thoái hóa cột sống là một rối loạn có thể dẫn đến mất cấu trúc và chức năng bình thường của cột sống. Sự thoái hóa có thể xảy ra ở một trong các thành phần cấu tạo của cột sống: xương đốt sống, đĩa sụn, các dây chằng bám quanh khớp. Quá trình thoái hóa làm mất nước (chiếm 80% trong sụn) và biến đổi một số chất, làm sụn khớp dễ bị canxi hóa.

Chấn thương: Chấn thương làm hư hại xương hoặc khớp ở cột sống, và phản ứng của cơ thể để sửa chữa nơi bị tổn thương sẽ dẫn đến sự hình thành gai cột sống. Trong trường hợp này, gai cũng có thể hình thành từ sự lắng đọng canxi ở dây chằng đã dày lên do phản ứng viêm.

Nhiều người vẫn nghĩ gai có thể mọc rất dài và đâm vào tủy hoặc các thành phần khác... Thật ra, gai thường chỉ có chiều dài vài milimet. Phần lớn gai cột sống xuất hiện ở mặt trước và bên, hiếm khi mọc ở phía sau, do đó ít chèn ép vào tủy và rễ thần kinh.

Triệu chứng thường gặp khiến bệnh nhân phải đi khám là đau thắt lưng, đau vai hoặc cổ, lan xuống cánh tay, tê tay..., đôi khi làm giới hạn vận động ở cổ, vai, thắt lưng. Phần lớn gai cột sống gây đau do tiếp xúc với dây thần kinh hoặc các xương đốt sống khi cử động.

Khi được bác sĩ chẩn đoán gai cột sống, một số bệnh nhân thường nghĩ ngay đến việc mổ để cắt đi “cái gai” đáng ghét này! Nhưng thực tế việc điều trị bệnh gai cột sống thường nghiêng về bảo tồn. Những thuốc thường dùng là nhóm giảm đau kháng viêm không steroid, nhóm giãn cơ. Đôi khi người ta dùng một số dụng cụ nâng đỡ như nẹp cổ... để giảm bớt gánh nặng lên các đốt sống bị bệnh.

Các phương pháp điều trị hỗ trợ gồm châm cứu, vật lý trị liệu (giúp giảm đau và tăng vận động ở một số cơ khớp bị ảnh hưởng), tập thể dục đều đặn. Cần tránh những môn nặng bắt cột sống phải chịu một trọng lượng lớn như đẩy tạ, nhảy cao... Nên tập các môn thể thao dưới nước như bơi lội, aerobic để giúp giảm sức nặng của cơ thể.
Yoga cũng là một phương pháp giúp giảm trọng lượng cơ thể lên phần đốt sống bệnh, đồng thời làm thư giãn vùng cơ bị ảnh hưởng.

Bệnh nhân phải đảm bảo trọng lượng cơ thể vừa phải, tránh tăng trọng quá mức. Về chế độ ăn, một số nghiên cứu cho rằng nên thêm muối để giúp cơ thể tái hấp thu một phần canxi vào máu.

Phẫu thuật được đặt ra khi có sự chèn ép vào tủy, làm hẹp ống tủy hoặc các rễ thần kinh ở cột sống. Tuy nhiên, không phải cứ lấy gai đi là bệnh sẽ hết vĩnh viễn vì gai xương có thể mọc lại ở cùng vị trí cũ.

Để có tuổi thọ cao, chúng ta có hai vấn đề cần chống: mỡ máu cao khiến tim dễ ngừng đập và huyết áp cao. Phải: 1. Ăn uống cân bằng, 2. Vận động có oxy, 3. Có trạng thái tâm lý tốt

 

1. Ăn uống cân bằng:
Uống:
a/ Trà xanh có chất trà đa phân có khả năng chống ung thư cộng flour làm bền răng, tiêu diệt vi khuẩn, chữa được sâu răng, chất trà cam ninh nâng cao độ bền huyết quản, làm cho huyết quản và mạch máu não khó bị vỡ; chống bức xạ.
b/ Rượu vang đỏ: Trong vỏ quả nho có chất nghịch chuyển thuần, tác dụng chống suy lão, chống oxy hóa, chống bệnh tim, phòng tim ngừng đập đột ngột (đột quỵ), ngoài ra rượu vang đỏ còn làm hạ huyết áp, hạ mỡ máu, nhưng với rượu vang đỏ, mỗi ngày cũng không được uống quá 50 - 100 cc, cần lưu ý: ăn quả nho đỏ chỉ rửa sạch và ăn cả vỏ, nho trắng và rượu trắng không có tác dụng trên mà còn gây chứng làm đặc máu; với rượu trắng, mỗi ngày không được uống quá 5 - 10 cc.
c) Sữa đậu nành có chứa đường quả khiến cơ thể có thể hấp thụ 100%, ngoài ra còn kali, magnesium, calci (hàm lượng calci nhiều hơn trong sữa bò), chất dị hoàng đồng chữa ung thư vú, ung thư trực tràng, ung thư kết tràng; theo giáo sư, muốn phòng chống ung thư, nhất thiết phải uống sữa đậu nành.
d) Sữa chua: Duy trì cân bằng vi khuẩn.
e) Canh xương có chất uyển giao tốt cho cơ thể.
f) Canh nấm: Nâng cao khả năng miễn dịch.
Ăn:
a) Cốc:
+ Đặc biệt là ngô, còn được gọi là cây vàng vì trong ngô già có nhiều chất noãn ân chi, á dụ toan, cốc vật thuần, vitamin E chống cao huyết áp, xơ vữa động mạch (giáo sư Tề Quốc Lực sống ở Mỹ, rất khỏe, tuy đã trên 70 tuổi giọng nói vẫn vang vang, mặt không có nếp nhăn là do giáo sư kiên trì ăn cháo ngô 6 năm liền). Người Mỹ nguyên thủy, người da đỏ không bị cao huyết áp và xơ vữa động mạch là do họ ăn ngô.
+ Kiều mạch: ba hạ: huyết áp cao, mỡ máu cao, đường máu cao. Kiều mạch còn có 18% xenluylo khiến người ăn kiều mạch không bị viêm dạ dày, viêm đường ruột, chống ung thư trực tràng, ung thư kết tràng.
+ Các loại khoai: Khoai lang trắng, khoai lang đỏ, khoai tây, củ từ, chúng có 3 tác dụng - hấp thụ nước, làm trơn đường ruột khiến không bị ung thư trực tràng, ung thư kết tràng - hấp thụ mỡ và đường khiến không bị đái tháo đường - hấp thụ độc tố chống viêm dạ dày, viêm đường ruột.
+ Yến mạch: Làm hạ huyết áp, hạ mỡ máu.
+ Kê: Tác dụng: trừ thấp, kiện tỳ, trấn tĩnh, ngủ ngon. Không nên dùng thuốc an thần (ít nhiều đều có độc), thay vào đó nên ăn kê.
+ Đậu nành: Nhiều prôtêin, prôtêin của 1 lạng đậu nành bằng 2 lạng thịt nạc, bằng 3 lạng trứng gà, bằng 4 lạng gạo. Đậu nành là hoa của dinh dưỡng, là vua các loại đậu, trong đậu nành có chất dị hoàng đồng, tác dụng phòng, chống ung thư tuyến vú, ăn sáng bằng sữa đậu nành và óc đậu rất tốt.
b) Rau:
- Rau xanh: Chống bức xạ, trong đó:
Cà rốt: Có tác dụng dưỡng mắt, chống quáng gà, bảo vệ niêm mạc, dưỡng tóc, dưỡng da, dưỡng niêm mạc, ăn cà rốt nhiều ít bị cảm, nó còn chống bức xạ.
Bí đỏ: Kích thích tế bào tụy sản sinh ra insulin, thường xuyên ăn bí đỏ không bị đái tháo đường.
Mướp đắng: Tiết ra insulin, thường xuyên ăn mướp đắng không bị đái tháo đường.
Cà chua: Ăn cà chua sẽ không mắc ung thư nhưng cà chua ăn sống không có tác dụng; phải đun nóng cà chua mới tách ra được chất chống ung thư, vì vậy hãy ăn cà chua theo kiểu xào với trứng, nấu canh cà chua hay ăn canh trứng gà cà chua.
Tỏi: Là vua chống ung thư. Tỏi không được ăn nóng vì hết tác dụng. Phải thái nhánh tỏi thành từng lát, để từng lát trong không khí độ 15 phút, kết hợp với oxy, tỏi mới phát sinh ra chất tỏi hay đại toán tố chống ung thư.
Theo TNO

Khoảng 15-30% người cao tuổi bị chứng bệnh này. Mặc dù lượng nước tiểu trong bàng quang còn ít nhưng người bệnh vẫn thường xuyên có nhu cầu tiểu tiện, không nín được.

 

Người bị bệnh này thường xuyên có cảm giác muốn đi tiểu, có khi cấp bách phải đi, nếu không sẽ bị ra quần. Bệnh nhân phải đi tiểu trung bình 1-2 giờ một lần, có khi chỉ 15-20 phút một lần. Tổng lượng nước tiểu trong ngày vẫn không tăng nhiều so với lúc khỏe.
Có 4 nguyên nhân cơ bản gây chứng bệnh trên: 
- Cơ bàng quang yếu, không ổn định, mất dần trương lực khiến lượng nước tiểu có thể dự trữ trong đó ngày một ít.
- Đường tháo nước tiểu ra bị tắc, có thể do phì đại tuyến tiền liệt, sỏi hoặc ung thư bàng quang; đôi khi do sa tử cung hoặc bàng quang.
- Bàng quang có rối loạn thần kinh.
- Cơ thắt bàng quang và niệu đạo không đủ lực.
Một số nguyên nhân khác cũng gây ra mót tiểu như: bệnh parkinson, alzheimer, tắc niệu đạo do viêm mạn hay phẫu thuật, tiểu đường, bệnh thần kinh cột sống xương cùng, di chứng của phẫu thuật trước đây ở vùng xương chậu.
Đối với phụ nữ sau mãn kinh, việc nội tiết tố oestrogen bị giảm có ảnh hưởng làm cho niêm mạc niệu đạo bị dày, cứng lên, cản trở lưu thông nước tiểu. Phụ nữ sinh đẻ nhiều cũng bị yếu cơ vùng chậu, gây tiểu không tự chủ.
Để chữa bệnh hiệu quả, ngoài việc điều trị theo chỉ định của bác sĩ, bệnh nhân còn phải có một lối sống khỏe, lành mạnh như: tránh dùng cà phê, trà, thuốc lá, rượu; không uống nước nhiều vào buổi tối. Nên thường xuyên tập luyện cơ chậu, cơ bụng bằng vận động, xoa bóp mạnh; tập luyện bàng quang bằng phương pháp đi tiểu theo giờ giấc quy định (lúc đầu khó khăn nhưng nếu kiên trì thì khoảng cách giữa 2 lần tiểu sẽ dài dần).
Phương pháp phẫu thuật chỉ được thực hiện khi bị phì đại tuyến tiền liệt, sỏi bàng quang, niệu quản, u bàng quang...

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

Ở người già trọng lượng của não giảm nhiều. Lưu lượng máu qua não giảm 20% và có nhiều rối loạn trong sự điều hòa. Các tế bào thần kinh - nơron - mất đi nhiều nhưng không đồng đều. 

 Hồi não thái dương trên, mất đi đến nửa nơron. Hồi não thái dương dưới, chỉ mất dưới 10%. Các thùy đỉnh và chẩm cũng mất rất ít. Mất xảy ra chủ yếu đối với các nơron kích thước lớn. Ví dụ trong tiểu não, các tế bào của lưới Purkinje chết trong lúc các nơron khác vẫn còn tồn tại. Trong các vùng dưới võ não, thì locus ceruleus và locus niger (liềm đen) có lẽ mất nhiều hơn cả. Diện mất do sự lão hóa tự nhiên trong nhân đáy Meynert còn đang được bàn cãi, nhưng số lượng tế bào mất do tuổi già không nhiều so với trong bệnh Alzheimer. Vùng hạ đồi, cầu não và hành tủy mất rất ít nơron trong lão hóa tự nhiên. Người ta đã chứng minh được vai trò của "cái chết của tế bào chương trình hóa" (Apoptose) trong sự mất đi của các nơron não.

Nhìn chung, mật độ các đường liên lạc đuôi gai của nơron vỏ não còn lại có giảm sút. Tuy nhiên cũng có thể tại một vài vùng, các đường liên lạc đuôi gai lại tăng lên, rất có thể do sự tái lập không thường xuyên của não, nhằm bù lại những tế bào đã mất. Lipofucsin hình như tích lũy trong một số vùng của não, đặc biệt trong vỏ cá ngựa và thùy trán. Myélin giảm mạnh nhất ở chất trắng vùng vỏ.

Trong quá trình lão hóa các enzym não, thụ thể và dẫn truyền thần kinh cũng có nhiều thay đổi. Về các enzym thì Anhydrase carbonic giảm, Monoamin oxydase tăng, Catéchol O - méthyltrans férase tăng, Cholin O-acétyltráns férase giảm (nhưng ít hơn so với bệnh Alzheimer), Acétylcholinesterase giảm (ít hơn so với Alzheimer) , Acid glutamic décarboxylase giảm. Về các thụ thể thì Dopamin 2 giảm, Muscarin giảm, Sérotomin giảm. Về các chất dẫn truyền thần kinh thì chất P giảm, Somatóstatin không thay đổi, Neurotensin giảm, Polypeptid ruột hoạt động mạch tăng.

Những thay đổi của các chất dẫn truyền thần kinh không có ảnh hưởng gì đến điện sinh, tư duy và tập tính. Trên điện não đồ những thay đổi có liên quan đến tuổi tác thường được biểu hiện dưới dạng tăng các sóng bêta và giảm các sóng delta, théta.
Những nơron vận động của tủy sống phần lớn được duy trì cho đến 60 tuổi. Tuy nhiên các tế bào của sừng trước có thể mất đi nhiều sau đó. Các ngưỡng rung và xúc giác ở ngón tay ngón chân giảm khi tuổi cao và ngưỡng nhiệt ở ngón tay có vẻ lại tăng lên theo tuổi.

Nhờ những tiến bộ trong Y học tuổi thọ con người ngày càng cao, dân số người cao tuổi ngày càng nhiều. Ngày nay trong công tác chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi người ta không những lưu ý đến tuổi thọ mà còn phải quan tâm đến chất lượng cuộc sống. Một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi là sự suy giảm trí nhớ trong quá trình lão hóa.

 

            Quá trình phát triển của hệ thần kinh từ khi phôi thai đến năm 25 tuổi thì hoàn chỉnh. Trong quá trình phát triển cho đến cuối đời hằng ngày có 3.000 tế bào thần kinh bị hủy đi. Ông bà ta có câu" 49 chưa qua 53 đã tới", vào lứa tuổi chuyển tiếp đã bắt đầu xuất hiện những biểu hiện bệnh của các cơ quan chức năng, trong đó chức năng chung của tế bào thần kinh bị suy giảm, chuyển hóa cơ bản giảm. Do đó thúc đẩy việc lão hóa các tế bào thần kinh dẫn tới rối loạn các phản xạ, nhất là các phản xạ có điều kiện qua các hoạt động tâm lý ví dụ chậm chạp, trí nhớ suy giảm... Trong các tế bào não có loại tế bào thần kinh có tên là Purkinje là cấu trúc cơ bản của tiểu não bị thoái triển theo thời gian, đến tuổi già sẽ xuất hiện run, động tác kém chính xác thường xuất hiện cùng lúc với sự suy giảm trí nhớ. Thường gặp ở những người trên 70 tuổi.
            Tại vỏ não thay đổi trong quá trình lão hóa trước hết những biểu hiện của quá trình thoái hóa ở vỏ não, teo vỏ não ở các vùng khác nhau với những mức độ khác nhau.
            Mạch máu não cũng có nhiều thay đổi và xơ mỡ động mạch gây ra những biểu hiện thiếu máu đến nuôi não cũng góp phần làm tiến triển nhanh hơn sự suy giảm trí nhớ. Lưu lượng máu qua não bình thường khoảng 750ml - 1.000ml trong một phút tức là 14% - 20% lưu lượng của tim. Tức là khoảng 50 - 52ml/ 100g não/ phút. Khi dưới 30ml/ phút sẽ bị thiếu máu não cục bộ.
            Suy giảm trí nhớ là tiến triển tự nhiên trong quá trình lão hóa vừa do tình trạng lão hóa ở tế bào não, thoái hóa não teo não, vừa do tình trạng thiếu máu đến nuôi não tức là tình trạng giảm tưới máu não.
Giảm tưới máu não lâu dài có các biểu hiện :
            ? Giảm sút quá trình hưng phấn ức chế dẫn đến thay đổi tính tình trở nên khó tính, người thận trọng trở nên do dự, dễ kích động, cáu gắt, rối loạn giấc ngủ, mất ngủ...
            ? Giảm khả năng tư duy, tập trung tư tưởng, chậm hiểu, hay quên, quên ngược chiều tức là quên những chuyện mới xảy ra nhưng lại nhớ những chuyện thời xa xưa.
            ? Rối loạn tâm thần
            ? Nhức đầu, chóng mặt sau khi suy nghĩ nhiều
            ? Run nguyên phát, chứng Parkinson.
PHÒNG NGỪA TÌNH TRẠNG SUY GIẢM TRÍ NHỚ :
® Phát hiện và điều trị sớm các chứng bệnh: xơ mỡ động mạch, cao huyết áp, tiểu đường, tăng mỡ trong máu... đây là các bệnh góp phần thúc đẩy tình trạng thiếu máu não cục bộ.
® Lao động trí não thường xuyên: Lao động trí óc dưới những hình thức học tập như học ngoại ngữ hay nghiên cứu về ngôn ngữ, lịch sử, cây kiểng non bộ... là những hình thức rất tốt giúp não được hoạt động thường xuyên giảm được quá trình suy giảm trí nhớ.
® Rèn luyện thân thể
            - Rèn luyện thân thể thật sự quan trọng cho sức khỏe. Nhiều nghiên cứu cho thấy thể dục thể thao làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch như: cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, bệnh khớp, loãng xương...
            Với hệ tim: Chống được quá trình xơ vữa động mạch, xơ cứng động mạch, giúp tim hoạt động tốt hơn.
            Ở hệ hô hấp: Giúp thông khí ở phổi tốt hơn, giảm ứ đọng đàm nhớt ở phổi.
            Ở hệ xương khớp: Giảm được quá trình hủy xương, tăng được quá trình tạo xương nên giảm phần nào tiến trình loãng xương, giảm được thoái hóa khớp.
            Ở hệ tiêu hóa: Giúp tiêu hóa thức ăn tốt hơn.
            Ở hệ thần kinh: Giúp chống stress, tăng oxy lên não, giảm được quá trình lão hóa não.
            - Đối với sức khỏe người cao tuổi khi tập thể dục, chơi thể thao cần lưu ý khi nhịp tim tăng trên 110 lần/ phút nên ngừng lại nghỉ ngơi.
            - Các loại hình tập là chạy bộ, bơi lội, đi xe đạp, đi bộ, chạy tại chỗ, tập dưỡng sinh, thái cực quyền, thái cực kiếm, Yoga...
            - Tập mỗi lần tối thiểu 39 - 45 phút, 3 - 6 lần mỗi tuần thì mới có tác dụng tốt cho sức khỏe.
            - Khi cần dùng thêm thuốc nên xin ý kiến của bác sĩ. Hiện nay có một số loại thuốc có thể giúp cải thiện được tình trạng suy giảm trí nhớ như: Tanakan, Giloba, Duxin...

Thiếu máu là bệnh tương đối thường gặp. Bệnh phát triển tương đối âm thầm, khi trở nặng có thể gây nguy hiểm cho người bệnh. Bệnh tiến triển chậm, khi tình trạng thiếu máu quá nặng có thể gây ngất xỉu, té chấn thương đầu rất nguy hiểm. Nếu được phát hiện điều trị sớm có thể tránh được những tình huống nguy hiểm này. Người cao tuổi thường gặp hai dạng thiếu máu:

 

Thiếu máu do thiếu vitamin B12
            Vitamin B12 là chất cần thiết, quan trọng trong hoạt động bình thường của cơ thể. Khi cơ thể thiếu vitamin B12 lâu ngày có thể gây ra các chứng bệnh như: thiếu máu, tổn thương thần kinh, dị cảm, giảm thị lực, mất trí nhớ, chán ăn, viêm lưỡi.
            Thiếu máu do thiếu vitamin B12 có đặc điểm chung của bệnh thiếu máu là tình trạng xanh xao dễ mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt, ngất xỉu, giảm khả năng gắng sức... Nhưng dù bị thiếu máu nhưng khi xem dưới kính hiển vi thì lại thấy hồng cầu to hơn bình thường. Nên trong y học gọi đây là bệnh thiếu máu hồng cầu to.
            Tổn thương hệ thần kinh do thiếu vitamin B12 phát triển tương đối chậm, nếu điều trị sớm có khả năng hồi phục tốt, trong các trường hợp điều trị trễ có thể để lại di chứng lâu dài. Bệnh có những biểu hiện như mất cảm giác khu trú một vùng cơ thể bị chi phối bởi dây thần kinh bị tổn thương. Đôi khi xuất hiện những cơn đau dữ dội lan tỏa khắp người. Ngoài ra, người bệnh còn thấy yếu hay liệt tay chân.
            Gần đây, tại hội nghị Lão khoa thế giới 1998 tại Genève Pháp có một công trình nghiên cứu về vấn đề thiếu vitamin B12 ở người cao tuổi cho kết quả là người cao tuổi thiếu vitamin B12 có tần suất bị tai biến mạch máu não và cao huyết áp cao hơn nhóm không bị thiếu vitamin B12.
            Người ta nhận thấy có một số nguyên nhân sau đây gây ra tình trạng thiếu vitamin B12:
            + Chế độ ăn uống không thích hợp cơ thể, gặp ở người ăn chay lâu năm.
            + Cắt dạ dày toàn phần.
            + Thiếu yếu tố cần thiết cho việc hấp thu vitamin B12 bẩm sinh (gọi là yếu tố nội tai)
            + Bệnh lý đường ruột như chứng kém hấp thu .
            + Ở người cao tuổi có khoảng 10 - 30% bị giảm khả năng hấp thu vitamin B12 tự phát.
            Vitamin B12 có trong thức ăn như gan, thịt, có ít trong đậu, vitamin B12 không có trong rau xanh. Khi thức ăn vào trong dạ dày, vitamin B12 gắn kết với một chất được tiết ra từ dạ dày gọi là yếu tố nội tại, sau đó hợp chất này đến ruột non, tại đây vitamin B12 được hấp thu vào máu và được dự trữ ở gan. Lượng vitamin B12 dự trữ ở gan. Lượng vitamin B12 dự trữ ở gan đủ cho cơ thể sử dụng trên 12 năm!
            Như vậy trong các nguyên nhân gây thiếu vitamin B12 nêu trên, ta cần lưu ý đến người cao tuổi có tỉ lệ bị thiếu vitamin B12 khá cao 10 -30%. Bệnh phát triển âm thầm tiềm ẩn vì vitamin B12 dự trữ ở gan đủ dùng trong 2 năm cho nên ở người cao tuổi cần lưu ý để phát hiện sớm bệnh.
            Nhưng ngừa bệnh vẫn hơn là chữa bệnh, do vậy sau tuổi 50 cần lưu ý bổ sung vitamin B12 bằng cách ăn thức ăn có chứa nhiều vitamin B12 như : gan, thịt hoặc uống thêm thuốc bổ có chứa vitamin B12 như: Arphos, Trivitamina B, Vitaminamin B12, Synervit. Không cần dùng quá nhiều vì nhu cầu vitamin B12 của cơ thể thấp, chỉ khoảng 6 microgam mỗi ngày. Cũng không cần dùng liên tục vì vitamin B12 được dự trữ ở gan. Chúng ta có thể dùng một thời gian rồi nghỉ sau đó dừng lại .
Thiếu máu thiếu sắt
            Thiếu máu thiếu sắt do số lượng sắt cung cấp cho nhu cầu hàng ngày của cơ thể bị thiếu hoặc bị mất do chảy máu rỉ rả ở đường tiêu hóa.
            Thiếu máu thiếu sắt do không cung cấp đủ chất sắt cho cơ thể, thường ở người cao tuổi bị lão suy, dinh dưỡng kém hay do bệnh lý đường ruột kém hấp thu sắt.
            Thiếu máu thiếu sắt do mất máu rỉ rả qua đường tiêu hóa có thể gặp ở đối tượng làm rẫy đi chân đất, dùng phân sống để tưới cây nên dễ bị nhiễm giun móc. Ở người cao tuổi thường bị đau lưng, nhức khớp nên thường xuyên dùng các loại giảm đau, nếu không có sự theo dõi của bác sĩ nên rất dễ bị viêm loét dạ dày. Nhưng ở người cao tuổi tình trạng loét dạ dày có thể ở dạng câm, nghĩa là không thấy đau bụng vùng chấn thủy dù có tình trạng loét dạ dày tá tràng cho đến khi bị biến chứng chảy máu hay thủng dạ dày tá tràng.
            Như vậy để phát hiện sớm thiếu máu thiếu sắt, ta cần lưu ý các triệu chứng sau đây:
            - Da xanh xao, niêm mạc mắt nhợt nhạt.
            - Người thường xuyên mệt mỏi.
            - Trong giai đoạn sớm người bệnh có thể cảm thấy bình thường.
            Thiếu máu thiếu sắt xảy ra khi lượng sắt trong cơ thể thiếu khá nhiều, không đủ cho nhu cầu tạo tế bào máu. Khi số lượng tế bào máu trong cơ thể quá thấp dẫn đến không cung cấp đủ oxy cho cơ thể, đặc biệt là não nên có thể dẫn đến tình trạng thiếu oxy não và gây ra triệu chứng chóng mặt và ngất xỉu.
            Để chẩn đoán sớm tình trạng thiếu máu thiếu sắt, ngoài việc đưa vào các triệu chứng lâm sàng như trên, bác sĩ sẽ cho làm thêm các xét nghiệm xác định số lượng tế bào máu, định lượng hàm lượng sắt trong máu...
            Trong điều trị, chúng ta cần lưu ý một số vấn đề sau đây:
Dinh dưỡng đầy đủ hợp lý là yếu tố quan trọng trong điều trị và ngừa bệnh. Thức ăn có nhiều chất sắt như thịt, cá, trứng, khoai tây, đậu, củ dền. Sắt có trong thực vật khó hấp thu hơn vì không phải là dạng sắt cơ thể thường sử dụng. Việc uống trà và sữa có thể làm giảm hấp thu sắt.
            Việc cung cấp chất sắt là quan trọng ở người già, phụ nữ, trẻ em nhưng cũng không nên cung cấp quá dư thừa sẽ gây ra bệnh dư chất sắt cũng rất nguy hiểm.
            Chúng ta có thể dùng thêm sắt dưới dạng muối Sulphat, gluconate cũng rất tốt. Chỉ cần dùng dưới dạng uống và cũng nên có sự chỉ định và theo dõi của bác sĩ.
            Điều trị các nguyên nhân gây ra chảy máu ở dạ dày như dùng thuốc trị giun móc, thuốc trị loét dạ dày tá tràng.
            Sau thời gian điều trị vài tuần bác sĩ sẽ cho xét nghiệm đánh giá lại tình trạng thiếu máu. Nhưng để có sức khỏe hồi phục tương đối có thể sẽ mất nhiều tháng, bà con cần kiên nhẫn trong theo dõi và hợp tác

            Bác sĩ có thể đề xuất những thí nghiệm khác phức tạp hơn để định vị nguyên nhân mất thăng bằng của bạn. Những thử nghiệm này không phải lúc nào cũng khẳng định được chẩn đoán, nhưng kết quả của nó lại là nền tảng cho những lần tham khảo sau này. Nếu triệu chứng vẫn còn, bác sĩ có thể sẽ yêu cầu làm lại những thí nghiệm này.

 

            w Đo điện động mắt: Để đánh giá chức năng thăng bằng của tai trong. Kiểu của động mắt cho phép đánh giá căn nguyên của động mắt. Bằng cách bơm nước lạnh và sau đó là nước ấm vào ống tai, thì chức năng thăng bằng của từng tai có thể được đánh giá một cách riêng rẽ. Điện động mắt xác định xem liệu hoa mắt hoặc chóng mặt được gây ra bởi bơm nước nóng lạnh trong ống tai có giống như là triệu chứng của bạn đã có trước đây không.
            w Đo điện thế thân não: Test này cho phép đo tốc độ dẫn truyền xung động điện đi qua dây thần kinh thính giác từ tai trong cho đến não. Nếu tốc độ này bị chậm thì có thể là do u dây thần kinh thính giác.
            w Chụp X quang và phim CT (cắt lớp): Nghiên cứu các phim điện quang ở nhiều tư thế khác nhau của xương tai là cần thiết. Phim CT cắt lớp thường được dùng để loại trừ u dây thần kinh thính giác.
            w Khám thần kinh: Chuyên gia về thần kinh sẽ giúp cho việc loại trừ những rối loạn ở hệ thần kinh trung ương, mà những rối loạn này có thể gây ra hoa mắt, chóng mặt cho bạn.
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA HOA MẰT VÀ CHÓNG MÂT
            Kết quả của những khám nghiệm có thể hoặc không thể phát hiện ra vấn đề gì đặc biệt. Trong thực tế, một số "Test" có thể phải làm lại sau này. Tuy nhiên, thậm chí những Test này chưa cho phép bác sĩ đưa ra một chẩn đoán, nhưng lại giúp bác sĩ loại trừ rất nhiều bệnh khác cho bạn. Dưới đây là một số nguyên nhân có thể gây ra hoa mắt và chóng mặt.
            1. "Hoa mắt" (Rối loạn trung ương)
            a. Xơ vữa động mạch: Là một nguyên nhân thường gặp đó là do mạch máu bị "hẹp" lại, chủ yếu là những mạch máu cung cấp oxy cho tai trong và não.
            b. Viêm thoái hóa khớp đốt sống cổ: Có thể gây ra hoa mắt đó là do hẹp các khoang giữa các đốt sống cổ làm hạn chế lượng máu đưa oxy lên não và tai trong.
            2. Chóng mặt: (do tai trong, ngoại biên)
            a. Viêm mê nhĩ: Thường là do nhiễm virus, thường không có ù tai và nghe kém, viêm mê nhĩ cũng hay gặp do viêm tai giữa mãn tính, loại này có nghe kém.
            b. Tắc vòi nhĩ: Thường đi sau đợt cúm hoặc dị ứng, thỉnh thoảng có nghe kém và ù tai đi kèm.
            c. Bệnh Meniere: Làm ảnh hưởng đến chức năng thăng bằng và chức năng nghe. Gây ra triệu chứng đầy tai, nghe kém, ù tai và những đợt chóng mặt.
            d. Chóng mặt tư thế lành tính: Chỉ ảnh hưởng đến phần thăng bằng của tai trong mà thôi.
            3. U dây thần kinh thính giác
            Triệu chứng và dấu hiệu của loại u lành tính và ít gặp này: Có thể bắt đầu bằng: hoa mắt hoặc chóng mặt, ù tai, nghe kém, chẩn đoán cần phải dựa vào đo điện thể thân não và chụp cắt lớp.
            Những nguyên nhân khác của hoa mắt và chóng mặt, đó là đái đường, thiếu máu, bệnh tim, một số rối loạn thần kinh khác và một số bệnh hiếm gặp khác mà chúng ta cần phải xem xét. Khi đó bác sĩ sẽ thảo luận với bạn về kết quả của các thử nghiệm cũng như là chẩn đoán và kế hoạch điều trị.
MỘT VÀI LỜI KHUYÊN
            Khi thay đổi tư thế một cách đột ngột, ở những người có tuổi, đôi khi thấy xuất hiện cảm giác hoa mắt, xây xẩm mặt mày. Đây là một số lời khuyên có thể giúp cho bạn cảm thấy dễ chịu và an toàn hơn.
            Thay đổi tư thế một cách từ từ đặc biệt là từ tư thế nằm chuyển sang ngồi hoặc đứng. Nhìn lên hoặc nhìn xuống, quay phải quay trái cũng từ từ.
            Đi xe máy hoặc leo trèo: Nếu bạn bị hoa mắt, chóng mặt thì không nên đi xe máy, cho đến khi bác sĩ điều trị cho phép. Cũng tương tự như vậy, tránh trèo lên thang, hoặc thao tác một việc gì đó ở trên cao, vì có thể bị nguy hiểm.
            Sử dụng thuốc: Một số loại thuốc đã được biết là có tác dụng phụ gây hoa mắt, chóng mặt. Cần phải nói rõ với bác sĩ là bạn đang dùng thuốc gì.
            Kết luận: Hầu hết các trường hợp chóng mặt, hoa mắt là không nguy hiểm, đáp ứng tốt với điều trị, nói chung sẽ cải thiện dần theo thời gian. Phẫu thuật hiếm khi cần thiết, nhưng có thể phải sử dụng trong một số trường hợp. Hãy đều đặn theo sự chỉ dẫn của bác sĩ. Việc làm lại các Test thử nghiệm là quan trọng, nếu triệu chứng của bạn vẫn còn hoặc thay đổi theo chiều hướng xấu, hãy báo cho bác sĩ. Các triệu chứng đó là đau đầu, thay đổi thị lực, nói lắp, giảm cảm giác và vận động, hoặc hay nhầm lẫn (thiếu tỉnh táo).

Thứ Ba, 10 tháng 9, 2013

Các nhà khoa học đã nhận thấy rằng tuổi thọ phụ thuộc trực tiếp vào thành phần hoá học của nước tiểu. 

Hàm lượng các chất protein trong nước tiểu càng cao thì kết quả của những dự báo về tuổi thọ càng đáng buồn, theo bản tin của Trường ĐH Moscow.
Để đi đến kết luận này, các chuyên gia Canada đã xử lý một lượng thông tin khổng lồ. Họ đã nghiên cứu các kết quả phân tích thống kê của hơn 810.000 người trong độ tuổi 30-85. Họ tập trung tìm hiểu các mối quan hệ giữa các chất chứa trong nước tiểu và tỷ lệ những người bị chết non. Và kết luận của họ đã làm mọi người kinh ngạc.

Cho đến gần đây người ta vẫn nghĩ rằng các protein trong nước tiểu (gọi là protein niệu) chỉ cho ta thấy thận “có vấn đề”. Tuy nhiên, hiện tượng protein niệu cao nhiều khi có thể xảy ra ở những người khỏe mạnh và thường được viện lý do là vì hoạt động thể chất quá mạnh, vì stress hoặc vì giảm thân nhiệt. Nước tiểu được coi là bình thường nếu nồng độ protein không vượt quá 0,03 gam mỗi lít. Cao hơn, có nghĩa là chức năng thận bị suy giảm.
Các tác giả của công trình nghiên cứu trên đã chứng minh rằng, những người nói chung không phát hiện protein trong nước tiểu là những người sống lâu hơn cả. Nam giới có đôi thận khỏe mạnh theo thống kê trung bình sống lâu hơn 15 năm so với những người đồng trang lứa có protein niệu cao. Sự khác biệt về tuổi thọ giữa những phụ nữ khỏe mạnh và và bị bệnh thận thậm chí còn nhiều hơn nữa, tới 17 năm.
Các chuyên gia còn cho rằng, khi trong nước tiểu xuất hiện các protein thì đó chính là sứ giả đến báo tin rằng cái chết đã bắt đầu khởi hành và đến gặp chúng ta mỗi ngày một thêm gần.
Những người mà kết quả xét nghiệm cho thấy protein tuy chưa bị kết luận là “xấu” thì cũng nên hết sức cảnh giác. So với người cùng tuổi thì nếu là nam, tuổi thọ sẽ bị rút ngắn đi 8 năm, còn với nữ, con số này là 10,5 năm.

Tốc độ hóa già của cơ thể chủ yếu được xác định bởi kiểu gene. Chính vì vậy mà mỗi loài động vật đều có tuổi thọ đặc trưng. Tuy nhiên, lối sống và môi trường sống cũng có thể là yếu tố kìm hãm hay tăng tốc quá trình hóa già của cơ thể.

Lão hóa là một quá trình tất yếu; nhưng nếu trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta duy trì thường xuyên một số nguyên tắc thì có thể làm chậm đáng kể quá trình này.
Kiểm soát stress. Sự không thành đạt trong nghề nghiệp, sự ra đi của người thân, mâu thuẫn trong gia đình hoặc nơi làm việc, vấn đề về con cái... là những yếu tố thường xuyên tồn tại trong cuộc sống và gây nên trạng thái stress (căng thẳng thần kinh, tâm lý). Đây là một tác nhân mạnh mẽ của sự lão hóa. Muốn làm chậm lại quá trình lão hóa sinh học thì phải biết kiểm soát stress, không để cơ thể rơi vào trạng thái stress trong thời gian dài. Những người sống thọ và khỏe mạnh thường có tính cách sống ôn hòa, lạc quan, quan tâm đến mọi người và tương lai.
Dinh dưỡng hợp lý. Mối tương quan giữa cân nặng và tuổi thọ vẫn còn chưa được làm sáng tỏ; nhưng chúng ta đã biết thừa cân và béo phì là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh như tiểu đường, tim mạch, ung thư...; đó là những căn bệnh gây tử vong hàng đầu. Chế độ ăn để phòng ngừa các bệnh này đòi hỏi hạn chế chất béo, chất đường và muối ăn; ăn đủ chất đạm, giảm lượng calo trong ngày và cung cấp thỏa đáng các vitamin và muối khoáng. Chế độ dinh dưỡng không hợp lý làm giảm trung bình 6-10 năm tuổi thọ.

Hạn chế các thói quen có hại. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng việc uống rượu, bia, hút thuốc, sử dụng các chất ma túy... làm tăng tốc độ già hóa các cơ quan trong cơ thể, mặc dù hậu quả không biểu hiện ngay lập tức và chúng ta ít khi cảm nhận được. Theo tính toán, những người nghiện thuốc lá bị giảm tuổi thọ 8-9 năm; nghiện rượu giảm 10-15 năm.

Rèn luyện thể lực. Trong khoảng giữa 30 và 70 tuổi, cơ thể chúng ta mất khoảng 30 đến 40% khối lượng cơ bắp. Lúc này, hiệu quả cung cấp máu của tim cũng giảm không dưới 30%. Việc tập luyện thể dục thể thao thường xuyên sẽ làm chậm lại những thay đổi này khoảng 20 năm. Nhiều loại hình tập phù hợp với tuổi trung niên và tuổi già như: đi bộ nhanh, chạy bước nhỏ, đạp xe đạp (tối thiểu 3 buổi trong một tuần, mỗi buổi 30-40 phút)

Hoạt động trí óc. Duy trì hoạt động trí óc là chìa khóa để giảm tốc độ lão hóa. Nếu đã nghỉ hưu bạn nên đọc sách, học, chơi cờ... vào thời gian rỗi để kích thích sự tư duy, phát triển trí tuệ.

Hoạt động xã hội. Những người tính tình cởi mở, có quan hệ xã hội rộng, nhiều bạn bè thường ít bị ốm hơn người sống cô đơn, khép kín. Những ai có nhiều người thân, bạn bè sẽ ít bị tác động bởi stress và có nhiều khả năng chịu đựng với các yếu tố gây stress hơn.

Đến bác sĩ thường xuyên. Nên đi thăm khám bác sĩ ít nhất một lần trong một năm (người già nên thường xuyên hơn). Ngoài khám lâm sàng, nên làm một số xét nghiệm như: điện tim, siêu âm tổng quát, xét nghiệm đường máu, mỡ máu... để có thông tin đầy đủ về tình trạng sức khỏe của mình và áp dụng các biện pháp điều chỉnh kịp thời.

Chăm sóc da. 70% những nếp nhăn trên da là do tác hại của tia cực tím của ánh nắng mặt trời gây ra; những tác hại của nó sẽ bộc lộ sau 15-20 năm. Các nhà da liễu đã khuyên mọi người hãy hạn chế tối đa tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, dùng các biện pháp che chắn, đội mũ nón.

Dựa trên các giả thiết về tốc độ già hóa của tế bào, các nhà di truyền học cho rằng, con người có thể sống đến 110-120 tuổi. Để sống thọ và sống khỏe mạnh thì ngay từ khi còn trẻ, mỗi người cần xây dựng cho mình một cuộc sống lành mạnh để có sức khỏe thể lực và tâm thần tốt, kìm hãm tốc độ lão hóa của các cơ quan trong cơ thể.
TS Đặng Quốc Bảo, Sức Khỏe & Đời Sống

Người già rất giàu kinh nghiệm sống và là điểm tựa tinh thần cho con cháu, song tiếc thay cơ thể của họ lại chịu sự tàn phá khắc nghiệt của thời gian. Vì vậy, làm thế nào để sống trường thọ và khỏe mạnh luôn là đề tài nghiên cứu của cộng đồng khoa học.

Tiến trình lão hóa qua từng giai đoạn:
- Độ tuổi 20-30: Đây là khoảng thời gian cơ thể phát triển mạnh mẽ. Sự trao đổi chất và chức năng sinh học của cơ thể hoạt động tối đa. Ở đàn ông, cơ thể sản xuất rất nhiều hoóc môn sinh dục testosteron từ 17 đến 26 tuổi, sau đó có khuynh hướng giảm dần. Từ giữa giai đoạn này, não bắt đầu suy thoái về chất lượng, và co lại dần khoảng 2% mỗi thập kỷ. Qua độ tuổi 25, sức mạnh cơ bắp bắt đầu suy giảm mà con người khó nhận thấy.
- Độ tuổi 30-40: Những dấu hiệu của tuổi già bắt đầu xuất hiện, trước tiên là lớp da bắt đầu mảnh, có vài nếp nhăn. Từ 37 tuổi, khả năng sinh sản của phụ nữ bắt đầu giảm. Đối với phái nam, chứng hói đầu phát triển (nếu có di truyền).
- Độ tuổi 40-50: Sự trao đổi chất chậm dần và ở nhiều người cuộc chiến chống béo phì thực sự bắt đầu: vòng eo, bắp đùi có dấu hiệu nở ra. Nếu không tập thể dục, sức chứa của buồng phổi và tim có thể giảm tới 10%.
- Độ tuổi 50-60: Đối với phụ nữ, mật độ oestrogen giảm hẳn và thời kỳ mãn kinh bắt đầu. Ở độ tuổi này, cứ 5 phụ nữ thì có một người bị chứng loãng xương do thiếu canxi. Đối với đàn ông, cơ bắp bắt đầu teo dần, da chùng lại và có khuynh hướng mau mất sức trong lao động.
- Độ tuổi 60-100: Giai đoạn này các cụ hay bị mất ngủ, hệ miễn dịch yếu dần. Sau 65 tuổi, căn bệnh Alzheimer có nhiều có hội phát triển. Da mặt không còn độ đàn hồi, tạo ra chỗ trũng trên khuôn mặt, hốc cổ.
Bí quyết trường thọ và khỏe mạnh
Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy, sự trường thọ phần lớn phụ thuộc vào yếu tố di truyền. Tuy nhiên, cũng có một số biện pháp giúp sống lâu và khỏe mạnh:
- Tập thể dục: Vận động thường xuyên không chỉ giúp giữ gìn tính linh hoạt, đàn hồi và sự cân bằng của các khớp xương, mà còn giữ cho trí não được minh mẫn và hệ tim mạch khỏe mạch.
- Giảm stress: Ttheo một nghiên cứu trên những phụ nữ 100 tuổi của Trung tâm y khoa Boston (Mỹ), các cụ có cuộc sống tích cực, hoà đồng và thái độ ung dung thoải mái, thì có khuynh hướng ít bị loạn thần kinh chức năng.
- Thời gian mang thai: Một số nghiên cứu mới đây trên Tạp chí Nature cho thấy, phụ nữ mang thai lần đầu trong độ tuổi 30-40 có khuynh hướng sống thọ hơn.
- Giấc ngủ: Một khám phá của Hiệp hội Ung thư Mỹ cho thấy, người ngủ quá nhiều có sức khỏe tệ hơn người ngủ đủ thời gian. Một người trung bình ngủ 7 giờ/ngày có tỷ lệ tử vong thấp nhất, còn 9 giờ/ngày có nguy cơ cao.
Bữa ăn: Chủ yếu ăn nhiều hoa quả, rau xanh ít qua chế biến, ngũ cốc dạng hạt như đậu Hà Lan, củ quả và uống đều đặn sữa chua. Lưu ý dùng dầu ô liu thay cho mỡ động vật, dùng canxi có trong cải bắp, cải bông, cam chanh, uống đủ nước mỗi ngày giúp nước tiểu sạch. Ngoài ra có thể dùng trà xanh, trà đen... giải khát mỗi ngày.

Không ít người Mỹ cho biết họ không muốn áp dụng các biện pháp y học để sống đến hơn trăm tuổi.

Ảnh minh họa: Reuters.
Trung tâm nghiên cứu Pew thực hiện khảo sát trên 2.012 người trong khoảng một tháng. Kết quả, khoảng 56% người tham gia khảo sát cho biết họ không muốn áp dụng các biện pháp từ y học để làm chậm quá trình lão hóa.
Hiện có khoảng 13% dân số Mỹ trên 65 tuổi, con số này tăng gấp bốn lần kể từ năm 1900. Tỷ lệ người già gia tăng chủ yếu là do áp dụng các tiến bộ về y học và giảm tỷ lệ sinh sản. Theo ước tính của cục điều tra dân số Mỹ, sẽ có khoảng 400.000 người sống trên 100 tuổi vào năm 2050.
Tuổi thọ trung bình của người dân Mỹ hiện nay là 78,7. Đa số những người được hỏi đều trả lời rằng họ muốn sống đến 79 đến 100 tuổi, tính ra độ tuổi trung bình là 90. Nhiều người được hỏi cũng tỏ ra lạc quan với các tiến bộ về y học khi 69% nói rằng căn bệnh ung thư sẽ được chữa khỏi vào năm 2050 và 71% dự đoán chân tay giả sẽ có thể hoạt động như chân tay thật.
Mặc dù hầu hết người Mỹ không muốn sống quá 100 tuổi, nhưng 63% người được khảo sát cho rằng, những đột phá về y tế kéo dài tuổi thọ con người có thể tạo nhiều điều có ích cho xã hội. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều người nghi ngờ về việc tiếp cận với phương pháp điều trị y học hiện đại.
Theo cuộc khảo sát, đa số mọi người tin rằng, họ có thể tiếp cận với những phương pháp điều trị mà họ muốn, nhưng thực tế sẽ chỉ có người giàu mới được tiếp cận với các phương pháp điều trị tiên tiến.

 

Liệu con người có thể làm chậm quá trình lão hóa? Câu trả lời là có. Người ta đã tìm thấy một số phương pháp dưỡng sinh trường thọ giản dị mà hiệu quả trong y học cổ truyền, như nuốt nước bọt và gõ răng, cứu huyệt Túc tam lý, xoa bàn chân, xát vùng lưng và xoa bóp vành tai.

 

Cứu huyệt Túc tam lý
Y học cổ có câu: "Đỗ phúc tam lý lưu", ý muốn nói cứu huyệt Túc tam lý có thể phòng chống các bệnh lý đường tiêu hóa, đặc biệt ở dạ dày và ruột. Không một nhà châm cứu nào không biết tới điều này. Song Túc tam lý còn là một huyệt vị nổi tiếng có tác dụng bảo vệ và nâng cao sức khỏe, phòng bệnh tích cực, làm chậm quá trình lão hóa và kéo dài tuổi thọ. Bởi vậy, từ xưa đến nay, Túc tam lý còn được gọi là huyệt Trường thọ.
Có nhiều cách để xác định vị trí của huyệt Túc tam lý, có thể tiến hành đơn giản như sau: sờ bờ trước xương ống chân từ dưới cổ chân ngược lên, đến gần khớp gối, nếu ngón tay bị mắc lại ở đâu thì đó là vị trí lồi củ trước xương chày, từ đây đo ngang ra ngoài một khoát ngón tay là vị trí của huyệt. Khi ấn huyết sẽ có cảm giác tê tức lan xuống bàn chân.
Do đâu Túc tam lý lại có công dụng đặc biệt như vậy? Trước hết, huyệt vị này có tác dụng tăng cường hoạt động của hai cơ quan trọng yếu trong nhân thể là tỳ và vị. Theo quan niệm của y học cổ truyền, vị chủ thu nạp, tỳ chủ vận hóa, do đó tất cả đồ ăn thức uống muốn trở thành các chất dinh dưỡng cần thiết để duy trì hoạt động sống của cơ thể đều phải qua hoạt động hấp thu, tiêu hóa, chuyển vận và phân bố của tỳ và vị. Bởi vậy, cứu huyệt Túc tam lý thường xuyên cũng có nghĩa là nâng cao năng lực hoạt động của hai cơ quan này. Thứ đến, trong những năm gần đây, với nhiều công trình nghiên cứu có đối chứng, các nhà y học cổ truyền đã chứng minh được hiệu ứng kháng lão của Túc tam lý thông qua việc cải thiện hàng loạt các chỉ tiêu về tuần hoàn, hô hấp, thần kinh, tiết niệu, nội tiết, miễn dịch và vận động ở người cao tuổi.
Kỹ thuật cứu huyệt cũng đơn giản: Dùng điếu ngải mua ở các cơ sở y học cổ truyền, hoặc tự chế bằng cách lấy lá ngải cứu phơi khô trong bóng râm, bóp mịn, bỏ gân xơ, rồi dùng giấy mỏng cuốn lại như điếu thuốc lá, châm lửa rồi hơ lên huyệt với cự ly chừng 3 cm, sao cho da vùng huyệt nóng đều lên. Mỗi huyệt cứu trong 5-10 phút, mỗi ngày cứu một hoặc hai lần.
Nuốt nước bọt và gõ răng
Các thầy thuốc xưa coi nước bọt là một dịch thể quý giá và trân trọng gọi bằng nhiều tên khác nhau như ngọc tuyền, hoa trì thủy, ngọc trì thủy, thần thủy...
Trương Cảnh Nhạc, y gia trứ danh đời Minh (Trung Quốc), đã viết: "Thực ngọc tuyền giảm khả diên niên, trừ bách bệnh, năng nhuận ngũ tạng, duyệt cơ phu" (nghĩa là nuốt nước bọt có thể sống lâu, trừ được nhiều bệnh, bồi bổ ngũ tạng, làm khỏe cơ đẹp da). Khoa học hiện đại đã chứng minh trong nước bọt có hơn chục loại men, khá nhiều vitamin, nguyên tố vi lượng, axit hữu cơ và nội tiết tố rất cần thiết cho cơ thể, ví dụ như amylase trợ giúp tiêu hóa, lysozyme kháng khuẩn, immunoglobulin tăng cường miễn dịch... Vì thế, nuốt nước bọt nhiều lần rất tốt cho sức khỏe.
Gõ răng cũng là một vận động được y học cổ truyền hết sức coi trọng vì nó giúp răng bền chắc, cải thiện sức nhai, làm tăng tiết nước bọt góp phần hỗ trợ tiêu hóa và bảo vệ dạ dày.
Vậy cách thức nuốt nước bọt và gõ răng cần được tiến hành như thế nào? Trước tiên phải chọn tư thế nằm hay ngồi cho phù hợp, tinh thần hoàn toàn yên tĩnh, mắt khép hờ, toàn thân thư giãn. Tiếp đó dùng lưỡi khuấy động trong miệng, xoa bóp mặt ngoài hàm trên và hàm dưới, khi nước bọt tiết đầy thì súc miệng 10 cái rồi dùng ý niệm phân làm 3 lần đưa nước bọt xuống Đan điền. Sau đó nhẹ nhàng gõ hai hàm răng vào nhau 100 lần. Mỗi ngày làm 3 lần, mỗi lần lặp lại chu trình trên.
Xoa bàn chân
Lão Tử nói: "Thiên lý chi hành, thủy vu túc hạ" (nghĩa là đường đi nghìn dặm bắt đầu từ dưới bàn chân). Con người muốn đi xa lẽ nào không cần đến đôi bàn chân cứng cáp. Ngược lại, nếu bàn chân được bảo dưỡng đều đặn thì con người sẽ khỏe mạnh, sống lâu. Theo y học cổ truyền, bàn chân là gốc rễ của cơ thể, là nơi có 6 đường kinh đi đến với hơn 30 huyệt vị châm cứu, chiếm gần 1/10 tổng số huyệt toàn thân. Bởi vậy, xoa bóp bàn chân thường xuyên có ý nghĩa rất lớn đối với sức khỏe.
Kỹ thuật xoa bóp bàn chân rất đơn giản: Sau khi ngâm rửa bàn chân bằng nước ấm, dùng lòng bàn tay xoa lần lượt hai mắt cá, mu bàn chân, gan bàn chân và các ngón chân từ nhẹ đến mạnh, từ chậm đến nhanh, mỗi vùng xoa 50-100 lần. Cuối cùng, dùng ngón tay cái day hai huyệt Dũng tuyền nằm ở điểm nối giữa 2/5 trước và 3/5 sau của đoạn nối đầu ngón chân thứ 2 với điểm giữa bờ sau gót chân, trong vòng 5 phút.
Xát vùng lưng
Lưng là bộ phận trọng yếu, với hơn 100 huyệt vị liên quan mật thiết đến tất cả các tạng phủ trong cơ thể. Vì thế, xoa xát vùng lưng có tác dụng lưu thông kinh mạch, điều hóa khí huyết, cải thiện chức năng tạng phủ, thư giãn tinh thần, giúp cơ thể khỏe mạnh và trường thọ.
Kỹ thuật xoa xát vùng lưng cũng hết sức đơn giản: sau khi tắm hoặc lau rửa toàn thân bằng nước ấm, dùng khăn gai dài vắt qua sau lưng rồi tiến hành xát ngang và dọc từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, từ nhẹ đến mạnh với tần số 100-200 lần/phút. Nếu có người khác dùng gốc bàn tay xát cho thì càng tốt, thậm chí có thể dùng dụng cụ gãi ngứa bằng nhựa để tiến hành xát lưng. Sau khi xát, có thể dùng hai ngón tay cái day ấn dọc hai bên cột sống để nâng cao hiệu quả trị liệu.
Xoa bóp loa tai
Loa tai là hình ảnh thu nhỏ của toàn bộ cơ thể, trông giống như một bào thai nằm lộn ngược cuộn mình trong tử cung. Trên một diện tích rất nhỏ (trung bình 15 cm2) mà loa tai có tới hơn 100 huyệt vị châm cứu mỗi bên, tương ứng với tất cả các bộ phận, các cơ quan trọng yếu của cơ thể. Khi một bộ phận hoặc một cơ quan bị bệnh thì huyệt vị tương ứng cũng biến đổi theo - và ngược lại, khi tác động lên một huyệt vị nào đó thì chức năng của cơ quan tương ứng cũng được cải thiện.
Bởi vậy, tiến hành xoa bóp loa tai có ý nghĩa khởi động toàn thân, điều hòa công năng các tạng phủ, làm lưu thông kinh mạch, từ đó giúp cho cơ thể đủ sức phòng chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao sức khỏe, kéo dài tuổi thọ.
Cách thức xoa bóp loa tai như sau: trước tiên, xát hai bàn tay vào nhau cho nóng lên, rồi dùng lòng bàn tay vò loa tai từ trên xuống dưới, từ trái sang phải. Tiếp đó, dùng hai ngón tay cái và ngón tay trỏ nhẹ nhàng vê vành tai thật kỹ sao cho tai nóng đều lên. Cần lưu ý xoa hết mọi ngóc ngách của tai. Mỗi ngày nên xoa 2 lần, khi tiến hành nên chọn nơi yên tĩnh, toàn thân và tinh thần thư giãn.
Như vậy, con người hoàn toàn có thể kéo dài tuổi thọ. Vấn đề cốt lõi là ở chỗ phải làm thế nào để sống khỏe và sống lâu một cách có hiệu quả.

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2013


Thể dục là để khoẻ nhưng nếu tập không đúng cách dễ dẫn đến chấn thương, thường là ở gối, thắt lưng, chân, tay, vai… Nếu tập sai nhiều còn gây ra các bệnh mãn tính như viêm khớp, thoái hoá khớp, đau thần kinh toạ, nứt, gãy xương sống.
Thông tin một người đàn ông 44 tuổi chết trong lúc luyện tập tại một trung tâm thể dục ở quận 5, TP HCM vào chiều 27/8 đã làm nhiều người lo lắng. Theo bác sĩ Lê Minh Chiến, Viện Khoa học Thể dục Thể thao, với những trường hợp dưới đây, rất cần có sự tư vấn của bác sĩ chuyên khoa về thời gian và loại bài tập phù hợp:
- Người lớn tuổi, có bệnh tim mạch: dễ bị ngất, ngã hay đột quỵ nếu vận động liên tục.
- Người béo phì: trọng lượng cơ thể tăng nhưng do bộ xương không lớn thêm nên luôn chịu áp lực rất lớn từ cơ thể, khi vận động không đúng cách sẽ làm đau các khớp và chấn thương.
- Người bệnh loãng xương, rối loạn chuyển hoá mỡ, tăng cholesterol, huyết áp cao, tiểu đường: cũng nằm trong nhóm có nguy cơ bị chấn thương cao khi tập thể dục theo chương trình của người bình thường.
- Phụ nữ mang thai: trong thời gian ba tháng đầu, có thể tham khảo ý kiến bác sĩ để thực hiện một số động tác giúp cho thai phát triển tốt hơn. Sau khi sinh, không nên tập luyện ngay, phải đợi ít nhất sáu tuần. Trường hợp sinh mổ, cần nghỉ ngơi ít nhất 12 tuần trước khi muốn tập lại để lấy dáng.
Có nhiều nguyên nhân khiến người tập thể dục đột quỵ, ngất hay tử vong trong hoặc sau khi vận động, trong đó phần lớn do bệnh lý. Tuy nhiên, ngay cả những người không có bệnh cũng có nguy cơ gặp các tai biến này. Chẳng hạn, không ăn sáng dẫn đến hạ đường huyết do quá đói, tập vào lúc trưa nắng gắt, tối hôm trước thức quá khuya, vui chơi nhiều làm người mỏi mệt, căng thẳng, stress, bị thương… Sức ép tâm lý phải gắng sức để đạt thành tích trong lúc tập luyện cũng dễ dẫn đến ngất xỉu, đột quỵ.
Để tập thể dục cho khoẻ và an toàn, trước khi tập, nên chọn môn và những bài tập phù hợp sức khoẻ và sở thích. Nếu tập với các thiết bị hỗ trợ tại phòng tập, cần hiểu rõ tính năng, cách thức hoạt động cũng như những cảnh báo an toàn của thiết bị. Tuyệt đối không luyện tập khi không biết rõ tác dụng cũng như cách sử dụng của các thiết bị hỗ trợ. Khởi động trước khi luyện tập từ năm đến mười phút. Phải tập thở ngay trước khi bắt đầu bài tập, hít vào bằng mũi và thở ra bằng miệng.
Cách tập an toàn nhất là tăng dần cường độ hằng ngày theo yêu cầu cơ thể. Với người có bệnh khi bắt đầu tập, chỉ nên tập nhẹ nhàng trong vòng 10-15 phút, ba lần/tuần để tim mạch và cơ bắp thích ứng dần. Người bình thường chỉ cần tập một giờ là đủ. Thanh thiếu niên tập 1- 2 giờ. Nửa tiếng là thời gian lý tưởng cho mỗi ngày và phù hợp với những người bận rộn, 20 phút dành cho người trung niên, cao tuổi.
Khi tập không nên làm các động tác mạnh rồi ngừng lại đột ngột vì dễ gây choáng ngất. Nên có các hoạt động đa dạng để không nhàm chán, như xen kẽ đi bộ với hít thở, vươn vai hoặc vung tay chân một cách thoải mái. bạn nên duy trì tập luyện đều đặn thường xuyên và lâu dài, đồng thời lựa chọn chỗ luyện tập an toàn, thoáng đãng.
Sau khi tập không nên tắm ngay vì máu chưa kịp điều chỉnh dễ gây thiếu máu não. Bạn cũng không nên ăn ngay vì làm ảnh hưởng xấu tới sự co bóp dạ dày. Không nên ngồi hay nằm xuống nghỉ một cách đột ngột khi kết thúc tập luyện mà nên đi lại nhẹ nhàng một lúc để cơ thể quen dần.
Design by Hao Tran -