Hiển thị các bài đăng có nhãn sức khỏe đàn ông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn sức khỏe đàn ông. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Theo các chuyên gia y tế, hiện có khoảng 20%-30% người trẻ gặp các vấn đề về trí nhớ, ảnh hưởng không nhỏ tới công việc, chất lượng cuộc sống.

Anh T.T.L (38 tuổi), trưởng phòng kinh doanh của một công ty chuyên ngành thời trang, gần đây có biểu hiện như người bị lú lẫn, hay quên. Mới đây, sau một lần thương thảo giao dịch hợp đồng với đối tác, anh L. tranh thủ ra về vì có cuộc họp khá quan trọng. Tuy nhiên, lúi húi lục khắp người, cặp táp, thậm chí bới tung cả bàn làm việc của vị đại diện đối tác để tìm chìa khóa xe, anh vẫn không thấy. Khi xuống bãi xe, anh L. mới phát hiện mình quên rút chìa khóa.
Bệnh của giới công sở
Trường hợp của anh L. là điển hình cho hội chứng bệnh suy giảm trí nhớ xảy ra không ít ở người trẻ. Tại các bệnh viện, phòng khám chuyên thần kinh ở TP HCM, số người trẻ đến khám do suy giảm trí nhớ ngày càng đông. Theo bác sĩ Lê Đức Định Miên, chuyên Khoa Ngoại Thần kinh Bệnh viện (BV) Nguyễn Tri Phương, hiện có khoảng 20%-30% người trẻ tuổi gặp các vấn đề về trí nhớ.
Nhiều người thường nghĩ bệnh suy giảm trí nhớ chỉ xảy ra ở người già. Tuy nhiên, ngày nay không ít người trẻ, mới tầm 40 tuổi, đã bắt đầu có biểu hiện lú lẫn, đãng trí. Bệnh này xảy ở độ tuổi lao động, làm ảnh hưởng tới công việc, chất lượng sống, thậm chí gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Nam giới thường gặp nhiều hơn nữ.
Rượu bia là một trong những nguyên nhân gây ra bệnh hay quên ở người trẻ tuổi
Theo bác sĩ Nguyễn Ngọc Quang, Giám đốc Trung tâm Giám định pháp y tâm thần TP HCM, bệnh suy giảm trí nhớ phần lớn do nhịp sống quá căng thẳng. Bệnh còn xảy ra ở các đối tượng sử dụng chất kích thích (bia, rượu, thuốc lá), bị chấn thương sọ não, những người bị bệnh về rối loạn chuyển hóa (tim, mạch, tiểu đường, huyết áp), đột quỵ… Người sống trong môi trường có nhiều tiếng ồn cũng bị ảnh hưởng nặng.

“Sát thủ” gốc tự do

Các chuyên gia y tế cho biết trí nhớ là quá trình hoạt động của não bộ để ghi nhận, lưu giữ và nhớ lại thông tin cần thiết. Quá trình này đòi hỏi có sự tham gia của nhiều vùng của não như thùy trán, thùy thái dương… Khi tế bào thần kinh các vùng não này bị tổn thương, lập tức trí nhớ gặp phải vấn đề.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cảnh báo cuộc sống hiện đại là một trong những nguyên nhân dễ gây suy giảm trí nhớ. Toàn cầu có đến gần 60% dân số bị ảnh hưởng bởi các chứng bệnh về trí nhớ và con số này ngày càng tăng. Năm 2010, thế giới có 35,6 triệu người bị sa sút trí tuệ.
 
Dự báo vào năm 2030 là 65,7 triệu người, năm 2050 là 115,5 triệu người. Nghiên cứu mới nhất đã chỉ ra rằng gốc tự do là tác nhân gây hại lên bộ não con người dưới tác động của các yếu tố lối sống công nghiệp như stress, rượu bia, thuốc lá, ô nhiễm... Với cấu trúc chứa hơn 60% thành phần là axít béo, não bộ trở thành là nơi bị “sát thủ” này tấn công nhiều nhất.

Theo PGS-TS Trần Đáng, nguyên cục trưởng Cục An toàn thực phẩm - Bộ Y tế, đối với người tuổi 25 trở lên, mỗi ngày có tới 3.000 tế bào não bị hủy diệt. Đặc điểm của tế bào não là không có sự sinh sản thêm nên mất đi tế bào nào là mất đi vĩnh viễn. Khi còn trẻ, hệ thống chống ôxy hóa trong cơ thể đủ sức kiểm soát. Tuy nhiên, sau tuổi 30, cơ thể bắt đầu yếu dần và gốc tự do sinh ra ngày càng nhiều dẫn đến sự hủy hoại tại các tế bào thần kinh càng mạnh. 

Các chuyên gia y tế cho biết ở hình thức nhẹ, bệnh nhân có những biểu hiện đãng trí, hỏi trước quên sau... Nhiều người cho rằng suy giảm trí nhớ là chuyện bình thường, chỉ cần giảm áp lực công việc thì trí nhớ sẽ phục hồi. Thế nhưng, cùng với tuổi tác và các tác nhân, nếu không biết cách phòng ngừa, điều trị đúng cách thì trí nhớ sẽ ngày càng suy giảm và để lại di chứng rất nặng nề. Thực tế cho thấy khoảng 50% số người suy giảm trí nhớ sẽ chuyển thành sa sút trí tuệ sau 3 năm mắc phải.

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

Một người 60 tuổi, bị bệnh phổi, bỗng nhiên thở hổn hển sau bữa ăn. Thủ phạm chính là lượng calo quá lớn trong đồ ăn nhiều đường. Theo các chuyên gia dinh dưỡng, việc hạn chế đường trong chế độ ăn của những bệnh nhân nói trên là rất cần thiết.

Điều này được giải thích như sau: Khi ta ăn đường, cơ thể sản xuất ra nhiều CO2 và người khỏe mạnh phải thở nhanh hơn để đào thải lượng khí thừa. Những lá phổi bị tổn thương bởi bệnh tắc nghẽn phổi mạn tính không thể trụ nổi sự quá tải này.
Kinh nhiệm nói trên chỉ là một trong rất nhiều mẹo nhỏ ít được biết đến về chế độ ăn làm nhẹ bớt một số bệnh mạn tính của người già.
Mẹo nhỏ, giá trị lớn
Từ trước tới nay, dường như các bác sĩ quá bận rộn hoặc không được đào tạo kỹ càng nên hiện tượng chế độ ăn khiến bệnh của người có tuổi nặng hơn vẫn xảy ra. Các chuyên gia của Hội dinh dưỡng Mỹ đã kết hợp với Viện hàn lâm Bác sĩ Gia đình (tổ chức bác sĩ về chăm sóc sức khỏe ban đầu lớn nhất nước Mỹ), đề ra "Sáng kiến Sàng lọc Dinh dưỡng". Đây là những hướng dẫn thiết thực, còn ít được biết đến, về chế độ dinh dưỡng cho người có tuổi, liên quan tới 8 bệnh mạn tính như ung thư, sa sút trí tuệ, tiểu đường, huyết áp cao, loãng xương...  Nội dung khuyến cáo này bao gồm:
1. Kiểm soát sự thiếu cân: Trọng lượng 55 kg có thể là vừa với một người cao 165 cm ở độ tuổi 30, nhưng lại là thiếu với người 65 tuổi. Sụt 4,5 kg ngoài ý muốn trong 6 tháng là một dấu hiệu nguy hiểm. Ví dụ, sự giảm cân đột ngột ở người già có thể là dấu hiệu sớm của sa sút trí tuệ.  
2. Một số thuốc thông dụng, như digoxin để điều trị suy tim, có thể làm giảm trầm trọng sự thèm ăn của người già. 
3. Người có tuổi thường không cảm thấy ngon miệng khi ăn thịt, nhưng protein tạo nên cơ bắp và giúp cơ thể phục hồi sau bệnh tật. Nên nhớ tới những thức ăn giàu đạm khác như đậu, bơ lạc và trứng.
4. Khi có tuổi người ta thường thích ăn ngọt. Thói quen này không phải là xấu. Bệnh nhân Alzheimer cần tăng cân có thể dùng món bánh rán nếu họ thích. Năng lượng giúp trì hoãn thời điểm phải nuôi bệnh nhân qua ống. Hãy dùng những thức ăn được cắt nhỏ bằng ngón tay vì người bệnh có thể đã quên cách dùng dĩa.
5. Đảm bảo là người bệnh huyết áp cao dùng đủ canxi. Đây là cách tự nhiên để làm giảm huyết áp. Tất cả bệnh nhân có nguy cơ suy tim phải giảm lượng muối ăn.
6. Dùng đủ nước. Trung bình mỗi ngày cần uống 6-8 cốc (225 ml) các loại: nước trắng, nước hoa quả, sữa, trà, cà phê.
7. Rất nhiều chuyên gia khuyến cáo dùng bổ sung vitamin B12 ở người già, vì cùng với tuổi tác, sự hấp thu chất này cũng giảm.
8. Thay đổi lời khuyên về chế độ ăn cho phù hợp với từng bệnh nhân. Đa số bệnh nhân thận cần chế độ ăn nghèo đạm, nhưng một số dạng bệnh thận lại cần nhiều đạm hơn một chút.
Giảm bớt đau đớn cho người bệnh
Khoảng 85% người có tuổi bị ít nhất một bệnh mạn tính và họ có thể cải thiện tình hình sức khỏe thông qua chế độ ăn. Giáo sư Albert Barrocas, chuyên gia về ngoại khoa và dinh dưỡng tại New Orleans, người đã đưa ra thí dụ về sự khó thở của người bị bệnh phổi khi ăn nhiều đường, nói: "Chế độ ăn tốt không phải phương thuốc trị bệnh, nhưng nó có thể giảm bớt những đau đớn của người bệnh, thậm chí còn giúp một số người không phải dùng thuốc".
Trong khi ở người trẻ tuổi, thừa cân là nguy cơ lớn gây tiểu đường và bệnh tim mạch, thì người già lại phải đối đầu với nguy cơ suy dinh dưỡng. Khi bạn đời khuất núi, người còn lại sẽ chẳng thiết nấu nướng hoặc không biết làm thế nào để có bữa ăn lành mạnh. Bệnh viêm khớp, bệnh tim hay các bệnh khác khiến việc nấu ăn trở nên khó khăn. Bệnh Alzheimer làm người bệnh quên ăn. Khi dùng kháng sinh, người bệnh có thể thấy miệng đắng ngắt. Tóm lại, có vô số lý do khiến người già có thể rơi vào tình trạng suy dinh dưỡng. Điều này không có lợi vì họ sẽ không đủ sức chống lại bệnh tật. Theo các chuyên gia dinh dưỡng, với người già, thừa 10% trọng lượng tốt hơn là thiếu 10% .
 
Website www.aafp.org/nsi sẽ cung cấp cho bạn thông tin đầy đủ hơn cùng một thử nghiệm nhanh giúp bạn xác định nguy cơ mắc bệnh về dinh dưỡng của mình.

Cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua là tình trạng bệnh lý thường gặp ở người cao tuổi nhưng ít được chú ý và rất dễ bỏ xót. Đây là dấu hiệu báo động một tai biến mạch máu não thực sự.

KHI NÀO GỌI LÀ CÓ CƠN THIẾU MÁU NÃO CỤC BỘ
Cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua là rối loạn ở não do gián đoạn cung cấp máu tạm thời ở não gây giảm chức năng ở não ngắn và đột ngột. (không quá 24 giờ, thường dưới 1 giờ)
ĐÂC ĐIỂM - NGUYÊN NHÂN CỦA CƠN THIẾU MÁU NÃO CỤC BỘ THOÁNG QUA
- Thiếu máu não cục bộ thoáng qua báo hiệu sẽ bị tai biến mạch máu não sau đó
- 80% người bị tai biến mạch máu não do xơ vữa động mạch có thiếu máu não cục bộ thoáng qua trước đó
- 1/3 người có thiếu máu não cục bộ thoáng qua -> Thiếu máu não cục bộ thoáng qua tái phát
- Thường gặp ở tuổi sau 50, nam > nữ
- Có hiện tượng microemboli do mảng xơ vữa động mạch nhỏ hoặc khối lắng đọng mỡ nhỏ trong lòng mạch.
- Cục máu đông nhỏ tại chổ
- Đa hồng cầu
- Thiếu máu hồng cầu hình bia
- Co thắt tiểu động mạch não có liên quan thuốc lá
- Bất thường của mạch máu não #9; #9; #9;
- Viêm động mạch, bệnh lupus ban đỏ, giang mai
- Huyết áp thấp
YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA THIẾU MÁU NÃO CỤC BỘ THOÁNG QUA
- Tăng huyết áp
- Bệnh tim mạch như hẹp valves 2 lá
- Nhức nữa đầu
- Hút thuốc lá nhiều
- Tiểu đường
- Tuổi cao
TRIỆU CHỨNG GỢI Ý CỦA THIẾU MÁU NÃO CỤC BỘ THOÁNG QUA
  1. Triệu chứng điển hình
  2. - Cảm giác nặng hoặc yếu tay, chân làm rớt đồ vật đang cầm, té ngã, thay đổi dáng đi.
    - Mất đồng bộ phối hợp trong vận động
    - Thay đổi về cảm giác: tê rần, kiến bò.
    - Rối loạn giọng nói: nói khó, lộn xộn, sai lệch, không nói được
    - Mất thăng bằng, chóng mặt bản thân quay hoặc đồ vật xung quanh quay...
  3. Triệu chứng không điển hình
- Thay đổi đơn thuần về ý thức
- Cơn choáng, ngất xiủ
- Bần thần nhức đầu nhẹ
- Quên thoáng qua
- Nôn, buồn nôn
- Co giật, liệt mặt, đau ở mắt...
ĐÂC ĐIỂM CỦA CÁC TRIỆU CHỨNG NÀY TRIỆU CHỨNG
Các triệu chứng này bắt đầu đột ngột, kéo dài trong thời gian ngắn vài phút đến 24 giờ và sau đó biến mất hoàn toàn. Triệu chứng này có thể lập lại với thời gian kéo dài hơn. Triệu chứng đặc biệt này phụ thuộc vào vị trí, mức độ tắc nghẽn cũng như tuần hoàn bàng hệ và thường chỉ xảy ra một bên cơ thể.
ĐÁNH GIÁ LÂM SÀNG
- Bệnh sử đầy đủ chi tiết
- Phân tích triệu chứng kỷ lưỡng giúp hướng đến nguyên nhân, vị trí tổn thuơng.
- Khám thực thể: thần kinh và tim mạch nhớ khám động mạch cảnh.
XÉT NGHIỆM CHẪN ĐOÁN
- Xét nghiệm thường quy xét nghiệm đông máu.
- Siêu âm động mạch cảnh
- CT-Scan não hoặc MRI não
- Động mạch não đồ
- Xét nghiệm chẩn đoán giang mai
- Xét nghiệm phát hiện yếu tố nguy cơ: Tiểu đường, rối loạn lipid máu.
ĐIỀU TRỊ THIẾU MÁU NÃO CỤC BỘ THOÁNG QUA
+ Mục tiêu: - Cải thiện cung cấp máu cho
động mạch não
- Phòng ngừa dẫn đến tai biến mạch máu não - Thiếu máu não cục bộ thoáng qua tái phát phải nhập viện trong 48 giờ đầu để đánh giá nguyên nhân mức độ nặng và hướng điều trị lâu dài.
- Điều trị triệu chứng những rối loạn về máu như đa hồng cầu bằng cách làm loãng máu.
VẦN ĐỀ DÙNG THUỐC
- Thuốc ức chế tiểu cầu: dùng liên tục, không xác định thời gian phải có chỉ định và theo dõi của bác sĩ chuyên khoa
- Thuốc cải thiện sử dụng oxy ở tế bào não
- Thuốc điều trị các yếu tố nguy cơ
- Chế độ ăn uống phù hợp với yếu tố nguy cơ
- Ngừng hút thuốc lá.
ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT TRONG TRƯỜNG HỢP CẨN THIẾT

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

Gai cột sống là sự phát triển thêm ra của xương trên thân đốt sống, đĩa sụn hay dây chằng quanh khớp. Nguy cơ mắc bệnh này tăng theo độ tuổi và nam bị nhiều hơn nữ.

Có 3 nguyên nhân chính dẫn đến gai cột sống:
Viêm khớp cột sống mãn tính: Quá trình viêm ảnh hưởng đến phần sụn đốt sống, lâu ngày phần sụn này bị hao mòn dần, khiến bề mặt trơn láng của nó trở nên thô ráp, xù xì và cuối cùng hai bề mặt xương tiếp xúc, cọ sát lên nhau. Đến lúc này, cơ thể sẽ có một quá trình tự điều chỉnh để khắc phục hiện tượng trên, nhưng kết quả của quá trình chỉnh sửa lại là sự hình thành gai xương. Do đó, có thể nói gai xương là một đáp ứng tự nhiên của cơ thể đối với phản ứng viêm.

Sự lắng đọng canxi ở các dây chằng, gân tiếp xúc với đốt sống: Trường hợp này thường gặp trong thoái hóa cột sống ở người lớn tuổi; đó là sự lắng đọng canxi dưới dạng calcipyrophosphat. Thoái hóa cột sống là một rối loạn có thể dẫn đến mất cấu trúc và chức năng bình thường của cột sống. Sự thoái hóa có thể xảy ra ở một trong các thành phần cấu tạo của cột sống: xương đốt sống, đĩa sụn, các dây chằng bám quanh khớp. Quá trình thoái hóa làm mất nước (chiếm 80% trong sụn) và biến đổi một số chất, làm sụn khớp dễ bị canxi hóa.

Chấn thương: Chấn thương làm hư hại xương hoặc khớp ở cột sống, và phản ứng của cơ thể để sửa chữa nơi bị tổn thương sẽ dẫn đến sự hình thành gai cột sống. Trong trường hợp này, gai cũng có thể hình thành từ sự lắng đọng canxi ở dây chằng đã dày lên do phản ứng viêm.

Nhiều người vẫn nghĩ gai có thể mọc rất dài và đâm vào tủy hoặc các thành phần khác... Thật ra, gai thường chỉ có chiều dài vài milimet. Phần lớn gai cột sống xuất hiện ở mặt trước và bên, hiếm khi mọc ở phía sau, do đó ít chèn ép vào tủy và rễ thần kinh.

Triệu chứng thường gặp khiến bệnh nhân phải đi khám là đau thắt lưng, đau vai hoặc cổ, lan xuống cánh tay, tê tay..., đôi khi làm giới hạn vận động ở cổ, vai, thắt lưng. Phần lớn gai cột sống gây đau do tiếp xúc với dây thần kinh hoặc các xương đốt sống khi cử động.

Khi được bác sĩ chẩn đoán gai cột sống, một số bệnh nhân thường nghĩ ngay đến việc mổ để cắt đi “cái gai” đáng ghét này! Nhưng thực tế việc điều trị bệnh gai cột sống thường nghiêng về bảo tồn. Những thuốc thường dùng là nhóm giảm đau kháng viêm không steroid, nhóm giãn cơ. Đôi khi người ta dùng một số dụng cụ nâng đỡ như nẹp cổ... để giảm bớt gánh nặng lên các đốt sống bị bệnh.

Các phương pháp điều trị hỗ trợ gồm châm cứu, vật lý trị liệu (giúp giảm đau và tăng vận động ở một số cơ khớp bị ảnh hưởng), tập thể dục đều đặn. Cần tránh những môn nặng bắt cột sống phải chịu một trọng lượng lớn như đẩy tạ, nhảy cao... Nên tập các môn thể thao dưới nước như bơi lội, aerobic để giúp giảm sức nặng của cơ thể.
Yoga cũng là một phương pháp giúp giảm trọng lượng cơ thể lên phần đốt sống bệnh, đồng thời làm thư giãn vùng cơ bị ảnh hưởng.

Bệnh nhân phải đảm bảo trọng lượng cơ thể vừa phải, tránh tăng trọng quá mức. Về chế độ ăn, một số nghiên cứu cho rằng nên thêm muối để giúp cơ thể tái hấp thu một phần canxi vào máu.

Phẫu thuật được đặt ra khi có sự chèn ép vào tủy, làm hẹp ống tủy hoặc các rễ thần kinh ở cột sống. Tuy nhiên, không phải cứ lấy gai đi là bệnh sẽ hết vĩnh viễn vì gai xương có thể mọc lại ở cùng vị trí cũ.

Cơ thể người cao tuổi là thước đo chuẩn xác nhất những cảm giác đau đớn, dù nhỏ. Đối với giảm đau mãn tính và cấp tính, bên cạnh việc sử dụng thuốc an toàn, đúng chỉ định, còn có biện pháp vật lý trị liệu như chườm nóng hoặc chiếu đèn hồng ngoại

Trao đổi với các cụ ông, cụ bà tại buổi sinh hoạt chuyên đề ở Trung tâm truyền thông giáo dục sức khỏe TP HCM hôm qua, bác sĩ Phan Hữu Phước, Trưởng khoa Lão, Bệnh viện Nguyễn Trãi TP HCM, cho biết, hai cách trên đều có tác dụng làm giãn cơ tại chỗ đau. Để tránh làm bỏng da, nhiệt độ chườm và khoảng cách từ đèn hồng ngoại đến phần cơ thể đau phải điều chỉnh hợp lý, duy trì ít nhất 30 phút/lần, mỗi ngày 1-3 lần. Chiếu đèn phải tránh các sẹo lồi.
Bác sĩ Phước cũng hướng dẫn các cụ cách nhận biết nhóm thuốc và chỉ định trong sử dụng điều trị giảm đau các bệnh như: khớp, gan, dạ dày, ung thư... Theo đó, giảm đau không cần chỉ định bằng thuốc Acetaminnophen, không nên uống rượu để tránh hoại tử tế bào gan. Đặc biệt, một số thuốc nhóm Opioids cho những trường hợp đau do ung thư giai đoạn cuối, người sử dụng cần hỏi kỹ bác sĩ về các tác dụng phụ lên hệ thần kinh như: nhận thức kém, ảo giác, sợ ánh sáng, ảnh hưởng suy giảm hô hấp (nếu dùng gấp đôi liều cho phép) hoặc gây nghiện, táo bón, bí tiểu. Ngoài ra, nhóm thuốc chống co giật cũng cần thận trọng khi sử dụng.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), có đến 70% người cao tuổi bị đau ở nhiều mức độ. Trong số bệnh nhân nội trú tại bệnh viện thì kiểu đau phổ biến nhất là khớp 70%, gãy xương 13%, đau thần kinh 10% và u

 

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

Bản thân hiện tượng lão hóa ít ảnh hưởng tới chế độ dinh dưỡng nhưng chế độ dinh dưỡng lại có ảnh hưởng đáng kể đến quá trình lão hóa. Đó là tác nhân thiết yếu để tuổi già sống yên vui khỏe mạnh.

 

Ắn uống cho người già là một vấn đề rộng lớn, bài này nói chủ yếu về nhu cầu chất đạm.
Trước hết nhu cầu ăn uống phụ thuộc nhiều vào tuổi tác. Người có tuổi có thể chia làm 3 loại:
- Các cụ dưới 70 tuổi cần thức ăn đa dạng, lành và cân bằng để hạn chế sự tiến triển của một số bệnh thoái hóa (như tim mạch, đái tháo đường, đục thủy tinh thể v.v...).
- Các cụ già tuổi 70-80 cần chú ý bồi dưỡng cho đủ các thành phần vĩ và vi lượng. Ở trường hợp mắc nhiều bệnh, các cụ cần chế độ ăn thích hợp để tránh bị suy dinh dưỡng.
- Các cụ trên 80 tuổi dễ có nguy cơ suy dinh dưỡng hơn, cần bồi dưỡng tối thiểu hàng ngày 30 calo cho 1kg thể trọng, trong đó 1g là protein (trừ trường hợp các cụ bị ốm liệt giường).
Đề phòng thiếu dinh dưỡng vì protein
Thiếu dinh dưỡng về protein và năng lượng là nguy cơ đầu tiên cho sức khỏe của người già. Các nguyên nhân chính là:
- ăn không đủ do thiếu thốn, ở cô đơn, hư hỏng về vị giác và khứu giác.
- Một số trường hợp bệnh lý (nhất là nhiễm khuẩn) hoặc do 1 số chế độ điều trị bệnh.
- Quan niệm sai lầm (ví dụ sợ béo).
Sụt cân là báo động chính của suy dinh dưỡng về protein và năng lượng. Do suy dinh dưỡng vì các mặt này là giảm sức cơ bắp, kém miễn dịch, suy nhược, trầm cảm.
Thức ăn có đạm
Nhiều người già không thích ăn thịt (do vị giác, tiết kiệm v.v...). Ta có thể thay thế bằng nhiều thức ăn khác có protein động vật như: cá, gia cầm, gan, trứng, sữa và các sản phẩm của sữa.
Người già nên ăn nhiều bữa (3-4 bữa) 1 ngày. Buổi sáng người già muốn ăn nhiều hơn cả nên bữa này cần đầy đủ cả đạm lẫn glucid và lipid.
Đối với các cụ già răng yếu, thức ăn phải xé, nghiền nhỏ, nấu dạng nửa lỏng, dạng canh, dạng kem để tráng miệng v.v...
Đối với các cụ ốm đau nằm viện hay mất trí, không tự ăn được, phải tiêm truyền qua tĩnh mạch để tiếp đạm. Đối với bệnh nhân phẫu thuật đường tiêu hóa hay tai mũi họng, phải cho ăn qua ống thông loại thức ăn đặc biệt giàu protein và các chất dinh dưỡng khác.
Bình thường sự phân phối calo ở các cụ già khỏe mạnh là:
- Protein (13-15% số calo) trong đó 50% là protein động vật.
- Lipid (30-50% số calo).
- Glucid (50-55% số calo).

Được ở gần Bác Hồ, tôi thấy cuộc sống của Bác hằng ngày, về nhiều mặt, thật là hay. Bác thường ăn cá kho, rau luôc, quả chín, sữa tươi, rất ít thịt, không bao giờ để thừa thức ăn.

 

Bác thường uống nước chè, có khách mới uống tí rượu nhẹ. Trước kia Bác có hút thuốc lá, ngày mấy điếu, nhưng khi bác sĩ khuyên thì Bác bỏ luôn. Đi đâu xa, Bác đều mang theo thức ăn riêng, đơn sơ, không làm phiền địa phương, gây thêm tốn kém. Bác thường nói: Thức ăn là sản phẩm của người lao động, cực nhọc lắm mới làm ra, cho nên ăn phí phạm là không nên. Nếu ta làm một cuộc thanh tra các khách sạn, cửa hàng ăn hay các bữa tiệc chiêu đãi, thì sẽ thấy lãng phí ghê gớm. Mà người ăn là ai? Đâu phải là người lao động? Và tiền của ở đâu vậy? Đều là của Nhà nước, của nhân dân đó thôi!
Về mặc, Bác thường dùng áo mỏng mùa hè, áo len mùa đông loại rẻ tiền. Tiếp khách thì đã có bộ ka ki bình thường. Bác đi dép quanh năm, không thích đi giày da, chỉ đi giày vải mùa lạnh. Có lần anh em phục vụ định cất đôi dép đã mòn, nhưng Bác không chịu, đành "trả lại" Bác.
Nhà ở của Bác là cái nhà sàn gỗ "lộng gió", có vườn cây, ao cá. Một thú vui của Bác là chăm sóc cây và cho cá ăn mỗi chiều.
Bác làm việc rất có giờ giấc, không tùy tiện. Sáng nào Bác cũng tập thể dục, đi bộ thong thả, hít thở không khí trong lành.
Cuộc sống hàng ngày của Bác về vật chất là thế.
Vấn đề sức khỏe, theo tôi hiểu là khỏe cả về vật chất lẫn tinh thần. Như phương ngôn đã nói: "Một tinh thần lành mạnh trong một cơ thể lành mạnh. Ngược lại tinh thần có lành mạnh thì cơ thể mới lành mạnh. Đúng vậy, không nên tách sức khỏe vật chất và sức khỏe tinh thần. Về "sức khỏe tinh thần", có thể nói Bác là một gương mẫu tuyệt vời - Bác là hiện thân của tinh thần lạc quan, yêu nước, của niềm tin sắt đá ở lý tưởng Cách mạng, của nghị lực vô biên trước mọi khó khăn thử thách. "Dĩ bất biến, ứng vạn biến", phương châm ấy là của một tinh thần thép. Chính tinh thần ấy làm cho Bác vượt qua những bệnh hiểm nghèo, giữ vững được sức khỏe tốt cho đến cuối đời.
Tôi xin nói thêm: Bác rất ít dùng thuốc trị bệnh, Bác biết nhiều loại thuốc Nam. Đi đường mỏi chân, Bác dùng nước tiểu của mình xoa bóp rồi rửa sạch khi qua suối. Bác không dùng bàn chải đánh răng, mà dùng ngón tay miết vào lợi và súc miệng bằng nước muối. Như thế đấy, đời sống của Bác rất đáng cho ta suy nghĩ.

Giữ mãi tuổi xuân là nguyện vọng của mọi phụ nữ ở mọi thời đại. Tuổi già đang là thách thức của nhân loại, càng là thách thức cuả mọi phụ nữ.

Là phụ nữ, nếu chỉ có một điều duy nhất để ước, bạn sẽ ước gì : Tiền bạc, Quyền lực hay Tuổi trẻ ? Chắc chắn rằng số đông chị em sẽ không ngần ngại khi chọn điều ước "Trẻ mãi không già"
Tuổi trẻ vô cùng quý giá với tất cả mọi người, càng đặc biệt quý giá với phụ nữ. Việc giữ cho tuổi xuân lâu bền phụ thuộc rất nhiều vào bản thân mỗi chị em. Cần chủ động tạo cho mình một phong cách sống khoẻ (Sức khỏe-Làm việc-Tập luyện), một phong cách sống trẻ (Kiến thức-Lao động-Sáng tạo), một bản lĩnh sống (Tự lập-Tự tin-Hữu ích)... Làm thế nào để sống vui, sống khỏe, sống có ích mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh có nghĩa là làm cho mình trẻ mãi...
Con người ai cũng sợ tuổi già, đặc biệt là phụ nữ. Tự ngày xửa ngày xưa, nếu như các vương ông ngày đêm lo thuốc "trường sinh" thì các vương bà đêm ngày lo cách làm cho "bất lão". Từ thế hệ này sang thế hệ khác, con người đã dùng biết bao trí tuệ và sức lực để đạt được những ước muốn của mình nhưng giữa ước mơ và hiện thực vẫn luôn còn một khoảng cách. Ngày nay, với những thành tựu lớn lao trong khoa học và kỹ thuật, con người đã tiến gần hơn tới mơ ước của mình, ngày càng sống lâu hơn, trẻ trung hơn, năng động sáng tạo hơn, vui vẻ hơn... tuy nhiên những điều đạt được vẫn chưa thể làm thoả mãn mỗi chúng ta, đặc biệt là chị em phụ nữ.
Tại sao chị em lại cần tuổi trẻ hơn ai hết ?
Tạo hóa đã không công bằng khi ấn định tuổi mãn kinh của phụ nữ vào tuổi 50, đánh dấu một bước ngoặt lớn của cuộc đời của mỗi phụ nữ. Những thay đổi về thể chất của thời kỳ sau mãn kinh luôn là nỗi ám ảnh, kéo theo những thay đồi về tinh thần và tâm lý cho nhiều phụ nữ. Chính vì vậy chị em luôn mong muốn làm sao để trong đoạn cuối của cuộc đời vẫn giữ được sự trẻ trung, khỏe mạnh, vui vẻ, có ích và đặc biệt không chênh lệch so với người bạn đời của mình.
Liệu những mong muốn chính đáng trên cuả chị em có thể thực hiện được không ?
Chúng ta không thể đảo ngược các quy luật của Tạo hóa, nhưng cải thiện chúng là điều chúng ta đã làm được. Cụ thể là chỉ trong vòng một nửa của thế kỷ 20, tuổi thọ trung bình của con người đã gia tăng rất nhanh (Tuổi thọ trung bình từ 45 ở thập niên 50, lên đến 65 ở thập niên 70, 70 ở thập niên 90 và sẽ là 75 ở đầu thế kỷ 21).
Sự gia tăng Tuổi thọ trung bình của một số vùng trên thế giới đến năm 2030 (Hình 1)
Tuổi thọ tăng làm thay đổi quan niệm về các lứa tuổi, tuổi thanh niên và tuổi trung niên được kéo dài ra, con người dừng lại lâu hơn ở tuổi trẻ (Quan niệm hiện nay tuổi thanh niên từ 16 đến 40, tuổi trung niên từ 40 đến 65, trên 65 mới là người có tuổi và trên 75 mới là người lớn tuổi)
Trên thực tế, sau tuổi 50, rất ít phụ nữ còn giữ được sự trẻ trung như nam giới cùng tuổi (cả về hình dáng, tác phong và suy nghĩ ). Như vậy, việc ngưng hoạt động của buồng trứng vào tuổi 50 là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tuổi trẻ của phụ nữ. Sự giảm thiểu đột ngột các hormon sinh dục nữ là cội nguồn của nhiều biến đổi về thể chất, kéo theo những biến đổi về tâm sinh lý và tinh thần của chị em.
Qua thời gian, tuổi thọ tăng, tuổi trẻ kéo dài ra nhưng tuổi mãn kinh của chị em dường như không thay đổi. Nếu như tuổi thọ trung bình là 75, mỗi chị em sẽ sống 25 năm trong thời kỳ hậu mãn kinh (Postmenopause), tương đương 1/3 cuộc đời. Làm sao để ở 1/3 cuộc đời phía sau này chị em vẫn sống vui, sống khỏa, sống có ích không chỉ là nguyện vọng của chị em mà còn là nhiệm vụ của toàn xã hội. Chúng ta không thể đảo ngược các quy luật của Tạo hóa, nhưng bằng những kiến thức khoa học ngày càng hoàn thiện, chúng ta đã, đang và sẽ cải thiện được các quy luật trên. Ý niệm về việc sử dụng hormon sinh dục nữ thay thế cho sự thiếu hụt sau mãn kinh (liệu pháp hormon thay thế) đã được hình thành và áp dụng trên 40 năm nay nhằm một mục đích rất nhân bản là điều chỉnh những rối loạn quanh và sau mãn kinh, cải thiện cuộc sống cho phụ nữ sau mãn kinh và liệu pháp này đã giúp ích cho rất nhiều phụ nữ vượt qua thời kỳ khó khăn này.
Về mặt lý, quả thật liệu pháp hormon thay thế vô cùng tuyệt diệu, giống như một "món quà thời gian" (A gift of time) rất quý giá mà nhân loại đã dành cho phụ nữ, bù đắp lại sự mất công bằng của tạo hóa. Có lẽ chẳng có một phụ nữ nào có thể từ chối sử dụng liệu pháp có lợi ích kỳ diệu này. Tuy nhiên, trên thực tế, hormon để thay thế có nghiã là thuốc, đã là thuốc thì thuốc nào cũng có mặt lợi, mặt hại khiến mỗi chúng ta trước khi sử dụng cần có sự kiểm tra, chỉ định, cân nhắc và theo dõi của thầy thuốc để việc sử dụng thuốc có lợi nhất, an toàn nhất, đúng với nghia õ"một món quà thời gian" đối với chị em.
Có phải chỉ liệu pháp hormon thay thế mới giúp được chị em ?
Liệu pháp hormon thay thế là cách tốt nhất, hữu hiệu nhất, hợp lý nhất để cải thiện mọi rối loạn kể cả ngắn hạn- mang tính cá thể (Các rối loạn vận mạch, các rối loạn ở da, cơ, các rối loạn ở hệ tiết niệu-sinh dục, các rối loạn tâm lý...) và dài hạn- mang tính cộng đồng (Các bệnh lý Tim mạch, Loãng xương...) của thời kỳ mãn kinh nhưng liệu pháp này không phải là biện pháp duy nhất, không thể áp đặt cho mọi phụ nữ và cũng thể thay thế được các biện pháp khác. Rất nhiều phụ nữ đã vượt qua qua thời kỳ khó khăn này bằng những cố gắng, nỗ lực của chính mình, đây còn được gọi là các biện pháp ngoài hormon vì liệu pháp hormon thay thế cũng có những chống chỉ định, cũng có những phiền hà và không dễ dàng áp dụng rộng rãi ỡ mọi phụ nữ, đặc biệt ở những nơi, những quốc gia có mặt bằng dân trí thấp, đời sống kinh tế - xã hội còn khó khăn.
Các biện pháp ngoài hormon tuy không can thiệp trực tiếp vào căn nguyên của những rối loạn sau mãn kinh nhưng đã giúp nhiều chị em cải thiện được cuộc sống của mình. Các biện pháp này không hề có chống chỉ định, cũng không quá tôn kém thời gian và tiền bạc. Các biện pháp này đòi hỏi chị em cần phải chủ động vượt lên chính mình, thay đổi nếp nghĩ cũ, xoá bỏ mặc cảm tự ty, tạo và duy trì một phong cách sống lành mạnh, một chế độ ăn uống, sinh hoạt, tập luyện, làm việc hợp lý, tận dụng tối đa sự trợ giúp của gia đình, xã hội và thầy thuốc.
Có đầy đủ kiến thức về tuổi mãn kinh, chị em sẽ đón nhận thời kỳ tất yếu này một cách bình tĩnh có sự chuẩn bị, không bị động lúng túng, không tự ty, mặc cảm, không buồn phiền, chán nản, biết tìm đến thầy thuốc khi có những thắc mắc cần giải đáp hoặc những khó chịu cần giúp đỡ.
Có một chế độ ăn uống, sinh hoạt hợp lý, một chế độ tập luyện thường xuyên chị em sẽ tạo và giữ được sức khoẻ ổn định, giữ được thăng bằng trong cuộc sống, giữ được sự cân đối thanh thoát và nhanh nhẹn của tuổi trẻ.
Có việc làm ổn định người phụ nữ thường có bản lĩnh hơn, chủ động hơn, tự lập hơn, tự tin hơn trong cuộc sống. Lòng say mê công việc, khả năng sáng tạo, sự giao tiếp xã hội ... giúp cho người phụ nữ khẳng định được vị trí của mình, có ích nhiều hơn cho gia đình và xã hội. Tất cả những điều đó góp phần rất tích cực với tuổi trẻ của phụ nữ.
Sự thông cảm, động viên của các thành viên trong gia đình đặc biệt là người chồng cũng rất cần thiết với chị em phụ nữ. Có thể coi đây vừa là nguyên nhân, vừa là động lực để thúc đẩy mỗi người phụ nữ cố gắng giữ tuổi trẻ của mình càng lâu càng tốt, càng nhiều càng tốt.
Chị em cần tận dụng sự trợ giúp của xã hội và các tổ chức xã hội để có được việc làm phù hợp, để tham gia và đóng góp năng lực của mình với các công tác xã hội.
Điều cuối cùng phải nói đến vai trò của thầy thuốc đối với chị em. Chị em cần phải tìm đến thầy thuốc để được giải đáp những thắc mắc liên quan đến sức khỏe. Tất cả các thuốc mà chị em sử dụng đặc biệt là các hormon, đều cần có chỉ định và theo dõi chặt chẽ của thầy thuốc.
Nếu chị em vừa thực hiện tốt các biện pháp ngoài hormon nêu trên vừa sử dụng liệu pháp hormon thay thế (khi có chỉ định và cóù điều kiện) thì chị em sẽ thực hiện được ứớc muốn của mình. Như vậy là bí quyết của việc giữ mãi tuổi xuân phần lớn nằm trong tay mỗi chúng ta : sự cố gắng của bản thân và tận dụng tối đa mọi sự trợ giúp, trong đó sự cố gắng của bản thân là quyết định và sự trợ giúp cũa thầy thuốc là rất quan trọng. Tuổi trẻ là niềm vui, là sức khoẻ, là có ích. Chừng nào bạn còn giữ được niềm vui sống, chừng nào bạn luôn thấy khỏe mạnh và năng động, chừng nào bạn còn cống hiến, còn sáng tạo, còn có ích cho bản thân, gia đình và xã hội ... ấy là tuổi trẻ còn đang ở cùng bạn.

Ngủ là trạng thái đặc biệt của cơ thể. Trong trạng thái này cơ thể tạm thời gián đoạn tất cả các liên lạc với môi trường xung quanh. Các cơ quan trong cơ thể đều giảm hoạt động hay ở trạng thái nghỉ ngơi. 

 

Giấc ngủ chính là quá trình ức chế lan tỏa có tác dụng bảo vệ vỏ não giúp cho cơ thể phục hồi sức lực, tăng cường thu nạp các chất dinh dưỡng vào cơ thể, khôi phục sức khỏe bị hao tổn trong lúc thức vận động làm việc. Người bệnh và người mệt nhọc rất cần giấc ngủ yên tĩnh để phục hồi sức lực.
Giấc ngủ thực sự trải qua 2 trạng thái: trạng thái giấc ngủ chậm kéo dài khoảng 90 phút, tế bào não và cơ thể được nghỉ ngơi tuyệt đối trong trạng thái này. Tiếp theo giấc ngủ chậm là trạng thái giấc ngủ nhanh kéo dài trong 30 phút. Trong giấc ngủ nhanh cơ thể xuất hiện giấc mơ, mộng du, nói mớ, cử động tay chân... 2 trạng thái này tạo thành chu kỳ kéo dài 120 phút hay 1 giờ 30 phút mỗi khi ngủ trung bình chúng ta trải qua 4 trạng thái tức là giấc ngủ kéo dài khoảng 8 giờ.
Ở bệnh nhân rối loạn giấc ngủ kéo dài quá trình khôi phục sức khỏe không được đầy đủ làm cho người bệnh thường xuyên thấy mệt nhọc, yếu đuối, và những triệu chứng khác như bần thần, chóng mặt, hay quên, buồn bã, bi quan, chán ăn... Rối loạn giấc ngủ kéo dài cơ thể gây ra suy nhược, suy nhược thần kinh.
Rối loạn giấc ngủ ở người cao tuổi thường gặp 2 dạng:
Mất ngủ.
Đảo lộn giấc ngủ.
Mất ngủ ở người cao tuổi
Người cao tuổi bị mất ngủ hay than phiền giấc ngủ trong đêm ngắn dưới 4 giờ, thời gian ngủ không đủ, khó đi vào giấc ngủ chậm nên ngủ rất khuya hay đi vào giấc ngủ dễ nhưng thức giấc rất sớm sau đó trằn trọc suốt đêm đến sáng. Ban ngày người bệnh than phiền mệt mỏi, lừ đừ không muốn làm bất cứ việc gì.
Nguyên nhân gây mất ngủ có thể là:
Môi trường xung quanh không yên tĩnh.
Dùng các chất gây hưng phấn trước khi ngủ như: trà, cà phê, cola... hay một số loại thuốc như Amphetamin, Methylphenidate...
Một số người có thói quen uống ít rượu trước khi ngủ tự nhiên ngưng đột ngột cũng có thể gây mất ngủ hay những trường hợp dùng thuốc an thần lâu ngày khi ngưng thuốc đột ngột cũng gây mất ngủ.
Do tình trạng đau mãn tính ở khớp hay cột sống, dị ứng về đêm, khó thở khi ngủ, chứng co giật chân khi ngủ, rối loạn nhịp tim dạng ngoại tâm thu, suy tim, trào ngược thực quản, tiểu đêm nhiều lần, bệnh nội tiết như hội chứng cushing, cường tuyến giáp trạng...
Do tác dụng phụ của thuốc trị chứng bệnh khác như thuốc trị cao huyết áp nhóm tác dụng lên hệ thần kinh trung ương, nhóm ức chế thụ thể bêta tan trong mỡ hay các thuốc trị trầm cảm...
Ở người trung niên và cao tuổi trầm cảm có thể là nguyên nhân gây mất ngủ đặc biệt là lúc gần sáng. Tình trạng lo âu mãn tính kéo dài ngoài việc bị mất ngủ còn có thể bị những cơn ác mộng xảy ra trong giấc ngủ nhanh.
Tình trạng không vận động thể lực, không tập thể dục hay chơi thể thao gặp ở những trường hợp nhàn rỗi, người lao động trí óc nhiều không chú ý đến rèn luyện thân thể.
Điều trị
- Tập thể dục chơi thể thao vào buổi sáng. Cân bằng giữa lao động trí óc, lao động tay chân, thư giãn giải trí.
- Tạo môi trường tuyệt đối yên tĩnh không có ánh sáng khi ngủ.
- Dùng những yếu tố vật lý có thể gây ngủ như tiếng động đều đều, tiếng mưa rơi, tiếng lá xào xạc, tiếng hát ru...
- Chủ động thư giãn, không suy nghĩ miên man, tập trung vào nhịp thở, đếm số 1, 2, 3 để tự gây ức chế vỏ não dễ đi vào giấc ngủ.
- Điều trị các bệnh khác như đau nhức, dị ứng, bệnh tim mạch...
- Tạo giấc ngủ bằng thuốc an thần: tùy theo kiểu mất ngủ như khó đi vào giấc ngủ hay thức giấc sớm, có ác mộng hay mộng du hay không thầy thuốc sẽ chọn những loại thuốc thích hợp, không nên tự dùng thuốc ngủ có thể bị nghiện thậm chí là ngộ độc thuốc ngủ.
Đảo lộn giấc ngủ
Là hiện tượng không ngủ được vào ban đêm mà ngủ vào ban ngày. Đảo lộn giấc ngủ khác với mất ngủ là người bệnh mất ngủ không ngủ được vào ban đêm và cả ban ngày còn đảo lộn giấc ngủ người bệnh ngủ vào ban ngày và ban đêm rất tỉnh táo, có thể làm việc bình thường, trong khi mọi người đang ngủ nếu cố gắng ngủ sẽ thấy trằn trọc bứt rứt, đương nhiên là không ngủ được càng cố gắng càng khó chịu bứt rứt.
Tình trạng đảo lộn giấc ngủ hay gặp ở người già do rối loạn chức năng hoạt động tại não trong quá trình lão hóa hay xảy ra sau tai biến mạch máu não hoặc một cơn bệnh nặng...
Điều trị
Đưa giấc ngủ trở về đêm như bình thường bằng cách:
Không cho người bệnh ngủ vào ban ngày.
Nếu ban đêm không ngủ được có thể dùng thêm ít thuốc an thần sau đó giảm liều an thần trong vài ngày đến vài tuần đến khi giấc ngủ trở về bình thường thì ngưng thuốc an thần.

Hạ huyết áp khi đứng (HHAKĐ) ở người cao tuổi là một bệnh thường gặp và nặng vì dễ làm bệnh nhân ngã với những hậu quả khôn lường. Những tác nhân thuận lợi gây bệnh là hệ thống tĩnh mạch suy yếu, mất nước và tác dụng phụ của thuốc. Phòng ngừa HHAKĐ ở người cao tuổi là mối quan tâm hàng đầu của cả bệnh nhân lẫn thầy thuốc.

 

1. Nhận biết HHAKĐ bằng cách nào?
Chỉ cần đo HA là có thể phát hiện được bệnh: Để bệnh nhân nằm nghỉ khoảng 20 phút rồi đo HA ở tư thế nằm. Sau đó cho bệnh nhân đứng dậy. Sau khi đứng từ 1 đến 10 phút sẽ đo HA ở tư thế này. Nếu thấy HA tâm thu tụt xuống >= 20mmHg so với HA khi nằm là có HHAKĐ.
Nên kiểm tra HA vào những thời điểm HA thường thấp nhất: ban đêm, buổi sáng khi ngủ dậy, sau khi ăn.
2. Những biện pháp phòng ngừa HHAKĐ là gì?
Soát xét lại các thuốc đang dùng
Nếu các thuốc đang dùng có nguy cơ gây hạ huyết áp (chống trầm cảm 3 vòng, an thần kinh, lợi tiểu, chẹn bêta v.v...) thì phải xem lại các chỉ định dùng thuốc, cân nhắc dùng hay ngưng.
Báo cho bệnh nhân biết những tình huống nguy hiểm. Đấy là:
- Những "giờ nguy hiểm": Ban đêm, sáng sớm khi ngủ dậy, sau khi ăn, sau khi uống một số thuốc giãn mạch như thuốc ức chế calcium, những nitrát ở dạng bào chế thường dùng (không phải loại giải phóng chậm) v.v...
- Những hoàn cảnh nguy kịch: Mất nước do nhiều nguyên nhân như sốt cao, đi tiêu lỏng, nôn, chán ăn v.v...
- Phải chú ý đến những người có nguy cơ chảy máu tiêu hóa ẩn hoặc bán cấp, những người có tiền sử viêm thực quản, loét dạ dầy, hành - tá tràng, hoặc đang dùng thuốc chống đông hay kháng viêm không stéroid.
Băng ép các chi dưới
Đây là biện pháp chủ yếu, rất có hiệu quả để điều trị suy tĩnh mạch nếu được thực hiện đúng kỹ thuật. Cần dùng loại băng thun chứ không phải băng chống giãn tĩnh mạch. Muốn có kết quả tốt phải băng theo chiều dọc và mang băng cả ngày lẫn đêm.
Chế độ ăn
Không phải kiêng ăn mặn. Tránh ăn uống thịnh soạn, không uống nhiều rượu; tốt nhất là ăn nhiều bữa nhỏ và mỗi khi ăn xong không đứng dậy nhanh. 30 phút trước khi ăn nên uống caféine 250mg tức là 2 - 3 tách cà phê, như vậy sẽ có tác dụng tốt. Hoặc là uống 2 - 3 tách cà phê lúc ăn sáng cũng được.
Tư thế
Tránh đứng lâu mà nên kết hợp giậm chân hoặc đi lại tại chỗ để làm tăng tuần hoàn trở về của máu tĩnh mạch. Khi đang nằm, nếu nhổm đứng dậy, nên thực hiện từng bước một: đầu tiên là ngồi dậy trên giường, rồi buông chân xuống đất, sau đó mới từ từ đứng dậy. Nếu thấy xuất hiện triệu chứng gì lạ nên nằm xuống ngay hoặc ngồi xuống và gác chân lên cao.
Ngủ để đầu cao
Nên kê đầu giường cao từ 10 - 15cm làm cho tư thế nằm ngủ nửa đứng. Tư thế này giữ cho việc kích thích AND và hệ thống rénine-angiotensine được hằng định trong đêm; nó cũng làm cho thể tích máu toàn phần (volémic) chỉ giảm không đáng kể.
Tránh nằm lâu
Tránh nằm nghỉ lâu trên giường, cần cho ngồi dậy sớm trong ghế bành để sớm quen với tư thế thẳng đứng mà tránh được HHAKĐ và làm cho bàn chân tiếp xúc với mặt đất, rèn luyện cảm thụ bản thể (pro-prióceptivite).
3. Vai trò của thuốc chữa bệnh
Không có thuốc nào có tác dụng hữu hiệu cả. Có thể dùng Fludrocortisone, Dihydroergotamine nhưng kết quả điều trị không rõ ràng.

            Bác sĩ có thể đề xuất những thí nghiệm khác phức tạp hơn để định vị nguyên nhân mất thăng bằng của bạn. Những thử nghiệm này không phải lúc nào cũng khẳng định được chẩn đoán, nhưng kết quả của nó lại là nền tảng cho những lần tham khảo sau này. Nếu triệu chứng vẫn còn, bác sĩ có thể sẽ yêu cầu làm lại những thí nghiệm này.

 

            w Đo điện động mắt: Để đánh giá chức năng thăng bằng của tai trong. Kiểu của động mắt cho phép đánh giá căn nguyên của động mắt. Bằng cách bơm nước lạnh và sau đó là nước ấm vào ống tai, thì chức năng thăng bằng của từng tai có thể được đánh giá một cách riêng rẽ. Điện động mắt xác định xem liệu hoa mắt hoặc chóng mặt được gây ra bởi bơm nước nóng lạnh trong ống tai có giống như là triệu chứng của bạn đã có trước đây không.
            w Đo điện thế thân não: Test này cho phép đo tốc độ dẫn truyền xung động điện đi qua dây thần kinh thính giác từ tai trong cho đến não. Nếu tốc độ này bị chậm thì có thể là do u dây thần kinh thính giác.
            w Chụp X quang và phim CT (cắt lớp): Nghiên cứu các phim điện quang ở nhiều tư thế khác nhau của xương tai là cần thiết. Phim CT cắt lớp thường được dùng để loại trừ u dây thần kinh thính giác.
            w Khám thần kinh: Chuyên gia về thần kinh sẽ giúp cho việc loại trừ những rối loạn ở hệ thần kinh trung ương, mà những rối loạn này có thể gây ra hoa mắt, chóng mặt cho bạn.
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA HOA MẰT VÀ CHÓNG MÂT
            Kết quả của những khám nghiệm có thể hoặc không thể phát hiện ra vấn đề gì đặc biệt. Trong thực tế, một số "Test" có thể phải làm lại sau này. Tuy nhiên, thậm chí những Test này chưa cho phép bác sĩ đưa ra một chẩn đoán, nhưng lại giúp bác sĩ loại trừ rất nhiều bệnh khác cho bạn. Dưới đây là một số nguyên nhân có thể gây ra hoa mắt và chóng mặt.
            1. "Hoa mắt" (Rối loạn trung ương)
            a. Xơ vữa động mạch: Là một nguyên nhân thường gặp đó là do mạch máu bị "hẹp" lại, chủ yếu là những mạch máu cung cấp oxy cho tai trong và não.
            b. Viêm thoái hóa khớp đốt sống cổ: Có thể gây ra hoa mắt đó là do hẹp các khoang giữa các đốt sống cổ làm hạn chế lượng máu đưa oxy lên não và tai trong.
            2. Chóng mặt: (do tai trong, ngoại biên)
            a. Viêm mê nhĩ: Thường là do nhiễm virus, thường không có ù tai và nghe kém, viêm mê nhĩ cũng hay gặp do viêm tai giữa mãn tính, loại này có nghe kém.
            b. Tắc vòi nhĩ: Thường đi sau đợt cúm hoặc dị ứng, thỉnh thoảng có nghe kém và ù tai đi kèm.
            c. Bệnh Meniere: Làm ảnh hưởng đến chức năng thăng bằng và chức năng nghe. Gây ra triệu chứng đầy tai, nghe kém, ù tai và những đợt chóng mặt.
            d. Chóng mặt tư thế lành tính: Chỉ ảnh hưởng đến phần thăng bằng của tai trong mà thôi.
            3. U dây thần kinh thính giác
            Triệu chứng và dấu hiệu của loại u lành tính và ít gặp này: Có thể bắt đầu bằng: hoa mắt hoặc chóng mặt, ù tai, nghe kém, chẩn đoán cần phải dựa vào đo điện thể thân não và chụp cắt lớp.
            Những nguyên nhân khác của hoa mắt và chóng mặt, đó là đái đường, thiếu máu, bệnh tim, một số rối loạn thần kinh khác và một số bệnh hiếm gặp khác mà chúng ta cần phải xem xét. Khi đó bác sĩ sẽ thảo luận với bạn về kết quả của các thử nghiệm cũng như là chẩn đoán và kế hoạch điều trị.
MỘT VÀI LỜI KHUYÊN
            Khi thay đổi tư thế một cách đột ngột, ở những người có tuổi, đôi khi thấy xuất hiện cảm giác hoa mắt, xây xẩm mặt mày. Đây là một số lời khuyên có thể giúp cho bạn cảm thấy dễ chịu và an toàn hơn.
            Thay đổi tư thế một cách từ từ đặc biệt là từ tư thế nằm chuyển sang ngồi hoặc đứng. Nhìn lên hoặc nhìn xuống, quay phải quay trái cũng từ từ.
            Đi xe máy hoặc leo trèo: Nếu bạn bị hoa mắt, chóng mặt thì không nên đi xe máy, cho đến khi bác sĩ điều trị cho phép. Cũng tương tự như vậy, tránh trèo lên thang, hoặc thao tác một việc gì đó ở trên cao, vì có thể bị nguy hiểm.
            Sử dụng thuốc: Một số loại thuốc đã được biết là có tác dụng phụ gây hoa mắt, chóng mặt. Cần phải nói rõ với bác sĩ là bạn đang dùng thuốc gì.
            Kết luận: Hầu hết các trường hợp chóng mặt, hoa mắt là không nguy hiểm, đáp ứng tốt với điều trị, nói chung sẽ cải thiện dần theo thời gian. Phẫu thuật hiếm khi cần thiết, nhưng có thể phải sử dụng trong một số trường hợp. Hãy đều đặn theo sự chỉ dẫn của bác sĩ. Việc làm lại các Test thử nghiệm là quan trọng, nếu triệu chứng của bạn vẫn còn hoặc thay đổi theo chiều hướng xấu, hãy báo cho bác sĩ. Các triệu chứng đó là đau đầu, thay đổi thị lực, nói lắp, giảm cảm giác và vận động, hoặc hay nhầm lẫn (thiếu tỉnh táo).

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013


1. Sau 50 tuổi
Hoạt động tình dục sau tuổi 50 đối với nam cũng như nữ có 3 đặc điểm sau đây:
- Giảm tần suất hoạt động tình dục.
- Giảm hứng thú tình dục.
- Tăng tỷ lệ bị rối loạn chức năng tình dục.
Mức độ giảm hứng thú và giảm khả năng hoạt động tình dục vẫn chưa được xác định chính xác. Theo P. Alarie và cộng sự cho biết công trình nghiên cứu Thụy Điển đã chọn mẫu nghiên cứu khá tiêu biểu gồm những người trên 70 tuổi (nam + nữ). Kết quả cho thấy 46% đàn ông còn quan hệ tình dục ở độ tuổi này trong khi đó đối với phụ nữ ở tuổi 70 chỉ còn 16%. Theo những công trình nghiên cứu và thăm dò ở Hoa Kỳ từ 40 năm nay, 70% những người khỏe mạnh ở tuổi thất thập vẫn hoạt động tình dục đều đặn. Các hoạt động tình dục chủ yếu là hành vi giao hợp.
2. Lão hóa chức năng tình dục
Các cơ quan sinh dục cũng bị ảnh hưởng khi các hệ thống nội tiết, thần kinh và mạch máu bị lão hóa. Khả năng đáp ứng tình dục đương nhiên bị tác động tùy theo phái tính. Chu kỳ đáp ứng tình dục được chia thành 3 pha:
- Pha ham muốn tình dục.
- Pha kích thích tình dục.
- Pha cực khoái.
Trong quá trình ham muốn tình dục có sự kiểm soát của androgen mà quan trọng nhất là chất testosteron. Qua theo dõi hồ sơ bệnh án, có những người duy trì được bản năng ham muốn tình dục ở độ tuổi rất cao nhưng cũng có những người bị giảm đáng kể hoặc bị mất luôn sự ham muốn tình dục. Có lẽ là do hậu quả giảm testosteron và tăng ngưỡng kích hoạt các thụ cảm androgen trung ương nằm trong vùng hạ đồi (hypothalamus) và hệ thống viền (système limbique).
Trong pha kích thích tình dục, đàn ông thì dương vật cương lên còn phụ nữ thì có chất nhờn làm trơn âm đạo và có hiện tượng xung huyết âm hộ. Các hiện tượng xung huyết này hoàn toàn phụ thuộc vào cơ chế mạch máu và thần kinh.
Khi đến tuổi già, rối loạn dễ bị tác động nhất đối với đàn ông là rối loạn cương dương vật.
- Lâu cương dương vật. Tình trạng giảm khả năng cương dương vật do quá trình lão hóa được gọi là presbyrectie (tạm dịch: lão cương).
- Để làm cương dương vật và duy trì tình trạng cương, người già vừa cần kích thích sinh dục nhiều hơn vừa cần sự kích thích kích dục tâm lý.
- Thời gian duy trì tình trạng cương giảm dần theo tuổi.
- Cương nhạy cảm hơn đối với xúc cảm và sang chấn tâm lý (stress).
Đối với phụ nữ thì có tình trạng teo và khô âm đạo do thiếu oestrogen, còn đối với phụ nữ đã sinh đẻ có khi là do trùng giãn âm đạo kết hợp với thoát vị bàng quang và thoát vị trực tràng. Thời gian để có được chất nhờn trơn âm đạo lâu hơn.
Trong lúc đạt cực khoái người đàn ông lão hóa phóng tinh dịch ít hơn. Đối với đàn ông 70 tuổi sau 1 lần đạt cực khoái phải cần đến 48 giờ hoặc hơn để có thể đạt được cực khoái lần thứ hai.
Đối với phụ nữ không có thay đổi gì có nghĩa lúc cực khoái, ngoại trừ có một số trường hợp cho biết bị co thắt tử cung gây đau, tình trạng này do những biến đổi về hormon sau thời kỳ mãn kinh. Đau ở vùng bụng dưới, đôi khi lan đến âm đạo, đến môi lớn và xuống cả chân.
3. Thời kỳ giảm ham muốn tình dục nam (andropause)
Thời kỳ này được xác định qua một số các triệu chứng lâm sàng của tình trạng lão hóa kết hợp với tình trạng giảm đáng kể testosteron tự do. Các triệu chứng thường gặp trong thời kỳ giảm ham muốn tình dục nam: dễ bị mệt mỏi, giảm lực cơ, đôi khi có chứng vú to (gynécomastie), cơn đỏ bừng mặt, dễ vã mồ hôi, dễ kích thích, ăn không thấy ngon miệng, da nhăn nheo, thiếu tập trung, dễ bị trầm cảm, lo lắng và rối loạn giấc ngủ. Về mặt tình dục, giảm ham muốn tình dục và giảm khả năng cương dương vật. Về mặt nội tiết, giảm năng tuyến sinh dục (hypogonadisme hypergonadotrophique) kèm theo giảm testosteron tự do và tăng bù trừ FSH và LH. Lunenfeld và Berezin xác định chẩn đoán thời kỳ giảm ham muốn tình dục nam khi testosteron toàn phần dưới mức bình thường 30% hoặc khi testosteron tự do giảm 50%, kết hợp với hàm lượng LH tăng gấp đôi.
Về mặt điều trị hiện nay, liệu pháp hormon thay thế vẫn còn đang bàn cãi và thường không được dùng đối với đàn ông có hàm lượng testosteron bình thường. Liệu pháp này nguy hiểm vì sau một thời gian dùng thay thế androgen, bệnh nhân bị teo tinh hoàn, ngưng sản sinh tinh trùng, tăng cao số lượng hồng cầu (polyglobulie). Phương pháp thay thế androgen còn gây ra tình trạng tăng sản tiền lập tuyến, dễ tạo đà gây ung thư tiền lập tuyến, tăng cholesteron huyết, tăng huyết áp, mụn trứng cá, ngưng thở đột ngột lúc đang ngủ, đối với loại thuốc uống có thể gây tổn thương gan.
4. Tuổi mãn kinh (ménopause)
Đối với phụ nữ, tình trạng lão hóa chức năng tình dục không liên quan đến sự giảm oestrogen niệu nhưng đúng hơn là có liên quan đến một số yếu tố tâm lý. Vào tuổi mãn kinh, hiện tượng teo buồng trứng làm giảm sản xuất oestrogen và có thể làm teo âm đạo. Teo âm đạo lại gây ra chứng giao hợp đau, rò âm đạo và chảy máu sau khi giao hợp. Âm vật hơi giảm thể tích. Môi trở nên mảnh hơn và teo lại. Vòng đai âm đạo nhỏ lại làm cho dương vật khó đưa vào. Tử cung đôi khi co thắt do thiếu oestrogen. Leiblum và Bachman (1983) nhận xét rằng hoạt động tình dục đều đặn trong và sau tuổi mãn kinh có thể làm hạn chế tình trạng teo âm đạo. Thủ dâm cũng có thể được coi là biện pháp thay thế giao hợp có hiệu quả.
Điều trị bằng liệu pháp hormon thay thế cho oestrogen qua đường uống, qua da hoặc dùng kem bôi lên âm đạo có thể làm trơn âm đạo, tạo cho âm đạo giãn nở dễ dàng và làm tăng lượng máu dồn về âm đạo. Để có được tác dụng tối ưu, cần phải duy trì điều trị một thời gian từ 18 - 24 tháng. Progesteron còn ngăn ngừa được sự tăng sản nội mạc tử cung.
Do không hiểu biết về những thay đổi liên quan đến đáp ứng tình dục theo độ tuổi cho nên dễ giải thích sai về hiện tượng. Chẳng hạn, người nam coi tình trạng khó cương cứng và lâu cương, phóng tinh yếu hoặc mất khả năng phóng tinh lần hai theo khoảng cách thời gian thông thường, như là những biểu hiện đầu tiên của tình trạng rối loạn tình dục. Sự lo lắng của người bạn đời cũng có thể dẫn đến rối loạn cương dương vật.
5. Một số bệnh mạn tính về tình dục
- Bệnh tiểu đường týp 2 dễ gây tác động đến chức năng tình dục hơn là bệnh tiểu đường týp 1.
- Tai biến mạch máu não, bệnh phổi mạn tính, viêm động mạch, di chứng ngoại khoa.
- Bệnh tim mạch: 40 - 70% bệnh nhân giảm hoạt động tình dục sau khi bị nhồi máu cơ tim, sau khi bắc cầu mạch vành. Ngoài ra, thuốc cũng gây ảnh hưởng đến chức năng tình dục như thuốc lợi tiểu, thuốc chống cao huyết áp, digoxine, bêtabloquant, thuốc chống loạn nhịp như disopyramide.
Để bảo đảm an toàn cho bệnh nhân tim mạch trong hoạt động tình dục, cần tôn trọng 2 nguyên tắc sau đây:
a. Nếu bệnh nhân có thể leo 2 khúc cầu thang mà không thấy khó chịu ở ngực, bệnh nhân có thể hoạt động tình dục.
b. Nếu nhịp tim tăng đến 120 nhịp/phút mà không bị đau thắt ngực, không thấy khó thở, không hạ huyết áp và không thấy thay đổi trên điện tâm đồ, hoạt động tình dục trong giới hạn an toàn.

Loãng xương là bệnh khá phổ biến hiện nay ở người cao tuổi. Bệnh đã và đang trở thành vấn đề cần được quan tâm trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu trong cộng đồng nhất là ở người cao tuổi và phụ nữ sau tuổi mãn kinh. Bệnh ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe người bệnh ngoài triệu chứng đau thì gãy xương luôn là nổi đe dọa với bản thân người bệnh và gia đình.

 

Do đâu lại bị loãng xương 
Loãng xương là tiến trình tự nhiên của cơ thể, âm thầm nhưng nguy hiểm trong quá trình lão hóa, đặc trưng bởi sự mất chất xương làm cho xương trở nên dòn và dễ gãy. Thường gặp ở người cao tuổi, phụ nữ sau tuổi mãn kinh nhưng cũng có thể do một số nguyên nhân khác như cường tuyến giáp, cường tuyến cận giáp, tiểu đường, nghiện rượu, nằm điều trị lâu tại giường, dùng một số thuốc như thuốc corticoide mà bà con hay gọi là đề xa không đúng cách và kéo dài. Loãng xương do các nguyên nhân này có thể gặp ở bất kỳ lứa tuổi nào.
Diễn tiến của quá trình loãng xương
Quá trình loãng xương kếo dài trong nhiều năm, sau 30 tuổi đã bắt đầu xuất hiện quá trình mất chất xương mất khá nhiều trên 50%, thường khoảng vào tuổi 50 - 70 thì triệu chứng đau mới xuất hiện, chủ yếu ở cột sống lưng hay thắt lưng. Đau là do loãng xương làm các đốt sống trở nên dòn dễ gãy, dễ lún gây đau cột sống kéo dài thường xuyên, đau sẽ nhiều hơn khi ngồi lâu hoặc đứng lâu và đỡ đau khi nằm nghỉ. Đôi khi cũng xuất hiện những cơn cấp tính dữ dội làm cho người bệnh rất hoang mang lo sợ.
Sau nhiều năm tiến triển có thể gây ra biến dạng cột sống như còng lưng, vẹo cột sống. Hiện tượng lún và xẹp cột sống lưng, thắt lưng làm chiều cao giảm dần theo tuổi nghĩa là thấp đi có thể đến 10 cm.
Đau do loãng xương ở xương tay chân có thể gây đau, nếu có đau là do nguyên nhân khác.
Nhưng loãng xương ở xương tay chân có thể gây ra mối nguy hiểm khác là dễ bị gãy xương đùi, gãy đầu dưới xương cẳng tay khi té ngã hay thậm chí chỉ là cử động sai lệch như chóng tay hay xoay chân mạnh. Vì xương bị loãng rất yếu, rất dễ gãy.
Loãng xương ảnh hưởng nhiếu đến sức khỏe và sinh hoạt của người bệnh. Triệu chứng đau, còng lưng làm cho người bệnh gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, sinh hoạt, công việc và cảm giác mình già hơn yếu hơn cho đến khi gãy cổ xương đùi thực sự biến người bệnh trở thành tàn phế. Vì vậy trong sinh hoạt làm việc cần cẩn thận khi đi lại nhất là những nơi trơn trợt không để bị té ngã, khi làm việc cần tránh những động tác gây chèn ép cột sống như khuân vác nặng, gập mạnh cột sống về phía trước.
Phòng ngừa loãng xương
Vấn đề phòng ngừa loãng xương thật sự cần thiết trên những đối tượng có nhiều khả năng mắc bệnh loãng xương như người cao tuổi, phụ nữ sau mãn kinh. Để phòng ngừa cần lưu ý một số việc sau đây
1. Trong vấn đề ăn uống
2. Tập thể dục thể thao
3. Trong việc sử dụng thuốc điều trị các bệnh khác.
* Trong ăn uống nên ăn thêm một số chất chứa nhiều canxi như: rau xanh, tôm, cua, thịt trứng. Có thể dùng thêm sữa. Nên dùng loại sữa chứa nhiều can xi ít ngọt không béo. Những các bạn cần lưu ý không nên ăn quá nhiều dễ dẫn đến dư thừa thậm chí là béo phì.
* Tập thể dục thể thao đều đặn mỗi ngày. Vì thực tế cho thấy rằng những người ít vận động, không tập thể dục thể thao nhất là những trường hợp bị liệt hay phải nằm điều trị lâu tại giường thì quá trình loãng xương xảy ra nhanh hơn bình thường. Nhiều nghiên cứu đã cho tấhy rằng hoạt động thể dục thể thao vận động cơ bắp làm hạn chế quá trình mất xương và giúp tăng quá trình tạo xương. Khi luyện tập thể dục thể thao cần lưu ý một số nguyên tắc sau đây:
1. Vận động cơ bắp nhịp nhàn từ từ ở mức độ vừa phải, cột sống được tập linh hoạt và uyển chuyển.
2. Trong trường hợp đã bị loãng xương khi tập thể ddục thể thao cần tránh những động tác gây hại cho cột sống như:
w Trồng chuối ngược có thể làm lún xẹp đốt sống
w Động tác cuối gập người nhanh về phía trước có thể làm gãy nứt đốt sống
w Nhảy tại chỗ mạnh cũng có thể làm xẹp đốt sống.
3. Có một số loại hình thể dục như đi bộ và thể thao như bơi lội cũng có tác dụng rất tốt phù hợp sức khỏe người cao tuổi.
Tránh dùng thuốc có thể gây loãng xương
Trong việc phòng ngừa bệnh bà con cần lưu ý tránh dùng kéo dài những loại thuốc có gây ra loãng xương điển hình là thuốc có chứa corticoide mà bà con hay gọi là đề xa. Đặc biệt dưới dạng thuốc uống hay thuốc tiêm có loại tác dụng kéo dài 3 - 6 tháng. Nhiều người thích dùng vì tác dụng kéo dài này nhưng quên rằng tác hại của thuốc nếu có cũng sẽ kéo dài trong nhiều tháng. Thông thường đề xa hay bị bà con lạm dụng để chữa các chứng đau nhức khớp vì giá rẻ dễ mua mà tác dụng giảm sưng, giảm đau nhanh nhưng không thấy được hết hậu quả tai hại vô cùng của nó. Một số người lớn tuổi bị đau nhức khớp đã nghe lời mách bảo của người quen tự mua đề xa uống vô tình làm trầm trọng thêm bệnh loãng xương vốn có của mình.
Ngoài tác dụng chữa bệnh cot-ti-cô-ít còn có những tác dụng có hại như sau khi dùng kéo dài, liên tục và không đúng cách
- Giữ muối và nước gây phù, cao huyết áp, suy tim sung huyết.
- Teo cơ yếu cơ và loãng xương (bà con hay gọi là mục xương)
- Loét dạ dày nặng hơn là xuất huyết dạ dày, thủng dạ dày.
- Rối loạn nội tiết, rối loạn kinh nguyệt.
- Suy tuyến thương thận.
- Làm phát triển nặng thêm bệnh tiểu đường, lao phổi, cườm mắt, tăng nhãn áp.
- Giảm sức đề kháng nên dễ bị nhiễm trùng, nhất là nhiễm lao và nhiễm nấm.
- Teo da, teo cơ áp xe tại chỗ tiêm.
Thực ra thuốc này không điều trị hết bệnh mà chỉ làm giảm triệu chứng mà thôi. Nhưng với nhiều tác dụng phụ nguy hiểm nêu trên nhắc cho chúng ta phải hết sức thận trọng khi dùng thuốc dạng đề xa. Vấn đề cơ bản là người bệnh đau nhức cần ý thức rằng không phải chỉ có đề xa mới chữa được bệnh mà còn nhiều thuốc khác ít tác hại nhưng vẫn có tác dụng tốt. Các bạn không nên tự dùng thuốc dù đây là thuốc rất dễ mua. Bạn nên dùng thuốc dưới sự chỉ định, theo dõi, kiểm soát của bác sĩ.
Phát hiện sớm loãng xương
Để phát hiện sớm bệnh loãng xương nếu có điều kiện các bạn cần khám sức khỏe định kỳ. Bác sĩ sẽ cho bạn làm một số xét nghiệm để phát hiện sớm bệnh loãng xương và theo dõi tiến triển của bệnh, trong điều kiện hiện nay có thể làm 2 xét nghiệm là
1. Chụp X quang sống và xương tay chân. Đây là xét nghiệm rẻ tiền và dễ thực hiện ở cơ sở y tế nào cũng có. Nhưng có hạn chế là khi thấy được loãng xương trên phim X quang thì bệnh đã trong giai đoạn muộn xương đã bị mất khá nhiều.
2. Xét nghiệm do mật độ xương giúp đánh giá được khối lượng xương có thể phát hiện loãng xương sớm hơn.
Ngoài ra để khảo sát bệnh hoặc tìm nguyên nhân bác sĩ cho là thêm nhiều xét nghiệm khác.
Lưu ý trong điều trị loãng xương
Vai trò của canxi khi điều trị loãng xương các bạn cần lưu ý rằng loãng xương phải được điều trị trong thời gian dài nhiều năm và các loại thuốc này hầu hết là đắt tiền như Rocaltrol. Miacalcic... thường phải kèm theo cung cấp can xi và nội tiết tố nữ khi cần thiết. Tùy theo dạng loãng xương bác sĩ sẽ hướng dẫn cho bạn cách điều trị riêng theo từng loại. Bạn không nên tự ý dùng các loại thuốc này.
Các thuốc điều trị loãng xương có tác dụng rất chậm và không phải là thuốc giảm đau nên tình trạng đau có thể kéo dài và lúc này bác sĩ sẽ cho dùng thêm thuốc giảm đau như: Tilcotil, Alaxan, Neo-pyrazon... các thuốc này đều có tác dụng phụ gây viêm loét dạ dày ít nhiều. Gần đây có thuốc nhiều thuốc mới ít tác hại dạ dày hon như Meloxicam nhưng vẫn không dùng được khi đã bị loét dạ dày. Tốt nhất bạn phải dùng theo chỉ định và theo dõi của bác sĩ. Đơn giản hơn bạn có thể dùng paracetamol như Efferalgan.
Tóm lại loãng xương là bệnh diễn ra âm thầm trong nhiều năm lúc đầu còn nhẹ bệnh không có bất kỳ biểu hiện gì nên người bệnh không biết hoặc chủ quan không lo điều trị sớm. Cho đến khi xuất hiện tình trạng đau lưng hay gãy xương thì bệnh đã quá nặng lúc này việc điều trị rất khó khăn tốn kém và ít hiệu quả.
Cho nên dối với bệnh loãng xương việc ngừa bệnh và phát hiện bệnh sớm là rất quan trọng nhất là những người bước vào tuổi trung niên, phụ nữ sau tuổi mãn kinh đặc biệt là những trường hợp mãn kinh sớm ở tuổi 40, những trường hợp đang dùng thuốc có thể dây loãng xương. Trong việc phòng ngừa các bạn cần lưu ý đến chế độ ăn uống, rèn luyện thân thể tập thể dục thể thao, không tự ý dùng các loại thuốc có thể gây loãng xương chỉ dùng thuốc khi có chỉ định theo dõi của bác sĩ.
Như vậy nếu biết cách phòng ngừa. Phát hiện sớm, điều trị sớm sẽ giúp bạn tránh được tác hại nguy hiểm của bệnh lãong xương.

Bước qua tuổi 40, đa số đàn ông cảm thấy cơ thể có sự thay đổi rõ rệt so với lúc trẻ. Dấu hiệu thường gặp nhất là mỗi khi đọc, họ phải để sách, báo thật xa hoặc đeo kính lão thì mới thấy rõ. Nguyên nhân là mắt đã bắt đầu lão hóa do phải làm việc suốt nhiều năm.

 

Sau đây là những vấn đề sức khoẻ thường gặp khác của nam giới ngoài 40 tuổi:
1. Cao huyết áp
Một ngày nào đó, nếu đột nhiên bạn cảm thấy nhức đầu dai dẳng trong nhiều giờ, chạy bộ xa nhanh mệt thì đó là lúc bạn cần lưu ý đến chỉ số huyết áp của mình. Qua hàng chục năm làm việc, mạch máu của bạn bắt đầu cứng lại. Nếu máu lưu thông khó khăn hơn, áp lực tăng thì rất có thể bạn bắt đầu bị cao huyết áp. Về đo huyết áp, bạn cần đo lúc nghỉ (ít ra là 5 phút), ngày 3 lượt: sáng, trưa, chiều, mỗi lượt đo 3 lần. Nếu chỉ số huyết áp trung bình của bạn trên 140/90 nghĩa là bạn bị cao huyết áp.
Đây là bệnh nguy hiểm với mọi lứa tuổi, nhất là khi bạn đã quá tuổi 50-60. Nó gây ra các biến chứng đột ngột, đe dọa tử vong như nhũn não, xuất huyết não. Do vậy, khi huyết áp bắt đầu cao, bạn nên đi khám, cân lại trọng lượng xem mình có béo phì không.
Muốn tránh huyết áp cao, bạn nên ăn bớt mặn, bớt chất béo và năng tập thể dục hằng ngày. Thử đi xe đạp mỗi ngày độ vài km, bỏ hẳn xe máy, có thể huyết áp sẽ trở lại bình thường mà không cần đến viên thuốc nào cả. Các môn đi bộ, chạy bộ không giảm được huyết áp nhiều, còn môn cầu lông, tennis chỉ càng làm huyết áp tăng thêm.
2. Bệnh gút
Nếu bạn có thể trạng hơi béo, thích uống bia, cần nghĩ đến bệnh gút khi thấy đau khớp (nhất là các khớp hạ chi) hoặc khi khớp gốc ngón chân cái sưng, đỏ, đau lúc về sáng. Bạn nên thử máu và có thể sẽ thấy lượng axit uric máu trên 7 mg%.
3. Xơ gan
Nhiều bạn có quan niệm sai lầm rằng chỉ rượu mới có hại, còn bia rất bổ và tốt cho sức khoẻ. Thực ra, 3 ly bia cũng có tác hại bằng 1 ly rượu. Nếu uống quá nhiều rượu bia, gan bạn sẽ bị hóa mỡ. Ở giai đoạn đầu, bệnh còn dễ chữa nếu bạn kiêng hẳn bia rượu. Nếu vẫn tiếp tục uống, bạn sẽ bị xơ gan, vô phương cứu chữa.
4. Tiểu đường
Vào tuổi này, bệnh tiểu đường hay xuất hiện ở người béo phì. Nhiều bạn cứ tưởng rằng ăn nhiều đường, chất ngọt thì sẽ mắc bệnh. Thực ra, cơ thể chúng ta có một cơ chế điều hòa thật hữu hiệu. Nếu bạn ăn đường nhiều, phần dư sẽ được dự trữ ở gan dưới dạng glycogen, khiến lượng đường trong máu lúc nào cũng là 1 g/l. Khi bạn ăn ít đi, cơ thể sẽ lấy glycogen dự trữ ở gan ra dùng lại dưới dạng glucose.
Bệnh tiểu đường xuất hiện khi cơ chế trên bị rối loạn. Bạn phải uống thuốc hạ đường huyết hằng ngày suốt đời nếu không muốn bị các biến chứng tai hại về thần kinh, mắt, thận... rất khó chữa.
5. Các bệnh do thuốc lá
Bạn nghiện thuốc lá? Nên bỏ sớm nếu muốn sống lâu. Thuốc lá là nguyên nhân gây ung thư phổi, nhồi máu cơ tim, khí thũng phổi, tâm phế mãn, tắc các mạch máu đầu chi...
Trong bệnh nhồi máu cơ tim, một phần mạch vành chở máu nuôi cơ tim bị bít tắc, gây hoại tử cơ tim. Khi tim co bóp, phần cơ hoại tử sẽ bị lủng, gây vỡ tim. Máu lan tràn rất nhanh vào lồng ngực làm bệnh nhân tử vong đột ngột.
6. Các bệnh do làm việc nặng
Đừng bao giờ làm quá sức mình. Nếu không, đến một ngày nào đó, sau khi khiêng nặng, bạn sẽ bị cụp xương sống và đứng lên không được. Chứng đau thần kinh tọa hoặc thoát vị đĩa đệm gây chèn ép thần kinh tọa cũng có thể xảy ra sau khi quá gắng sức. Cơn đau này đặc biệt khởi đầu từ một bên hông, lan qua mông xuống một bên chân, bàn chân.
7. Mất ngủ
Càng nhiều tuổi, bạn càng thấy giấc ngủ mình ngắn dần, hay thức dậy sớm (3-4 giờ sáng). Điều đó báo hiệu bạn đã bị chứng mất ngủ ở người cao tuổi. Nên tắm nước ấm, tập thể dục nhẹ, không ăn trái cây lúc chiều tối, ngủ nơi yên tĩnh, tránh đọc sách hay xem phim căng thẳng, bạn sẽ ngủ tốt hơn.
8. Đục thủy tinh thể
Nếu bạn cảm thấy mắt mờ dần, không còn nhìn xa hay gần được nữa thì có thể bạn đã bị cườm (đục thủy tinh thể), phải đến khám bác sĩ. Khi cườm đã chín hay già, bác sĩ sẽ mổ lấy thủy tinh thể đục ra và đặt vào một thủy tinh thể nhân tạo, giúp bạn trông rõ trở lại.
9. Thoái hoá khớp
Sau bao năm hoạt động, khi đến tuổi này, các khớp xương của bạn bắt đầu bị lão hóa. Nếu cảm thấy đau lưng, mỏi gối, có thể bạn đã bị thoái hóa khớp. Việc uống thuốc kháng viêm sẽ giúp giảm đau phần nào nhưng bệnh thoái hóa khớp ở người cao tuổi không sao khỏi hẳn được.
10. U xơ tiền liệt tuyến
Nếu tình cờ bạn cảm thấy tiểu khó, sức rặn yếu đi, hãy đi siêu âm hoặc khám ở bác sĩ ngoại khoa để phát hiện sớm bệnh u xơ tuyến tiền liệt. Khi được phẫu thuật cắt bỏ khối u xơ chèn ép ống thoát tiểu, bạn sẽ đi tiểu thoải mái ngay.
Bạn cũng có thể vô tình thấy một khối u mềm ở bìu hay bẹn, đó là do cơ thành bụng đã yếu, gây bệnh sa ruột hay thoát vị. Không có gì phải lo ngại; hãy đến khám bác sĩ ngoại khoa. Bác sĩ sẽ mổ kéo ruột lên và may thành bụng chắc lại.
11. Ung thư dạ dày
Cũng vào tuổi này, khi bạn thấy ăn uống không còn ngon, đôi lúc muốn nôn, ngày càng thiếu máu, da nhợt nhạt, cần nghĩ ngay đến một bệnh ác tính là ung thư dạ dày. Phải chụp hình kiểm tra dạ dày để phát hiện bệnh thật sớm. Đừng để quá trễ; đến khi sờ thấy một khối u cứng ở bụng thì bác sĩ đã không thể giúp gì cho bạn được.
12. Khả năng tình dục suy giảm
Nếu thấy quan hệ tình dục không còn thoải mái, bạn không nên mặc cảm rồi tự mua Viagra dùng. Do Viagra là thuốc giãn mạch nên cần hết sức cẩn thận với người có tiền sử cao huyết áp, tim mạch. Nếu dùng không đúng, nó có thể gây tử vong đột ngột.

Thứ Ba, 10 tháng 9, 2013


Theo độ tuổi, chức năng của các cơ quan đều giảm dần, số lượng các tế bào hoạt động ở các cơ quan khác nhau, dẫn đến giảm cường độ trao đổi chất trong cơ thể, ngoài ra người già thường vận động ít hơn. 

Vì vậy, ở tuổi già, nhu cầu về năng lượng của cơ thể giảm, vấn đề ăn uống ở độ tuổi này cần phải được đặc biệt chú ý. 

Ăn vừa đủ 

 

Ở tuổi già, quá trình lão hóa diễn ra mạnh mẽ, do vậy lượng chất đạm phải được cung cấp đầy đủ để phục vụ cho việc tái tạo các tổ chức mô. 

Một số người già, vì một lý do nào đó (do không nhận thức được ý nghĩa của việc ăn uống điều độ và hợp lý, do bệnh tật, do hoàn cảnh, do yếu tố tâm lý..) thường ăn ít, đặc biệt là ăn không đủ các chất đạm và kết quả là cơ thể gầy yếu, mệt mỏi, suy giảm khả năng đề kháng của cơ thể và dễ bị mắc bệnh. 

Cơ thể người già cần được cung cấp một lượng tinh bột đầy đủ, tuy nhiên nên hạn chế dùng đường và bánh kẹo ngọt. Giảm sử dụng mỡ sẽ giảm được lượng calo sử dụng chung và giúp phòng chống vữa xơ động mạch, bệnh tim mạch, tiểu đường, đau khớp... 

Trong khẩu phần ăn của người già, tỷ lệ năng lượng do mỡ cung cấp nên dưới 20%.Người già nên thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao. 

Thức ăn của người già cần chứa nhiều các vitamin khác nhau (rau quả, trái cây), các chất khoáng và chất xơ. Chất xơ có trong trái cây, rau và ngũ cốc. 


Chất xơ có tác dụng phòng ngừa bệnh táo bón ở tuổi già, ngoài ra chất xơ còn có tác dụng làm giảm mức độ cholesterol trong máu.Các vitamin được đưa vào cơ thể trong thành phần của các nhóm chất dinh dưỡng. Những người già thường không hay quan tâm đến việc ăn hoa quả và rau. 

Nhiều người trong số họ không có thói quen uống sữa, nguồn cung cấp chủ yếu canxi để phòng ngừa bệnh loãng xương... Tất cả những thói quen đó, kết hợp với khả năng hấp thụ các chất của cơ thể người già kém hơn dẫn đến trong cơ thể người già thường bị thiếu các loại vitamin và các khoáng chất khác nhau. 

Người già cần phải thường xuyên uống từ 2-3 cốc sữa một ngày để phòng ngừa phát triển bệnh loãng xương. Tuy nhiên cần chú ý rằng, ở người già khả năng tiêu hóa sữa kém hơn, do vậy nên uống làm nhiều lần trong ngày, mỗi lần 100-120ml 

Cùng với tuổi tác, hệ thống tiêu hóa làm việc kém hiệu quả hơn, cường độ trao đổi chất trong cơ thể người già diễn ra chậm, do vậy thức ăn cần được chế biến kỹ, tinh, tránh ăn các thức ăn khó tiêu như đồ rán, thịt mỡ, sụn, gân, da và cổ cánh gia cầm... 


Người già nên ăn làm nhiều bữa trong ngày, có thể là 4 hoặc 5 bữa. Cần rèn cho mình thói quen ăn hoa quả hằng ngày để tăng cường cung cấp vitamin cho cơ thể. 

Uống đủ nước và chăm chỉ tập luyện 

Cơ thể người già cần phải được cung cấp đủ nước, trong một ngày, người già nên uống khoảng 1-1,5 lít nước ở dạng nước trắng, nước hoa quả, nước chè. Uống đủ nước sẽ làm cho quá trình tiêu hóa thức ăn tốt hơn, phòng ngừa chứng táo bón. 

Chế độ ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng, đủ calo, có tỷ lệ cân đối giữa các chất, kết hợp việc tăng cường tập luyện thể dục thể thao với các bài tập rèn sức bền (đi bộ, chạy bước nhỏ, bơi, đạp xe đạp) có cường độ hợp lý và một cuộc sống tinh thần thoải mái sẽ đảm bảo một cuộc sống mạnh khỏe và hạnh phúc ở người già.
Design by Hao Tran -